CHƯƠNG III
PHÉP NƯỚC – LỆ LÀNG
Khác với nhiều nước, làng xã Việt Nam là một cộng đồng cư dân “được hình thành trong quá trình liên hiệp tự nguyện giữa những người nông dân lao động trên cn đường chinh phục những vùng đất gieo trồng… Làng, xã.. đã từng đóng một vai trò to lớn trong lịch sử lâu dài giữ nước và giữ dựng nước” (nông dân Việt Nam trong lịch sử - tập I).
Làng, xã là đơn vị hành chính cơ sở, đặt dưới quyền cai quản của triều đình, của nước, nhưng làng xã cũng có quyền tự trị khá rộng rãi. Nước có luật thì làng có lệ, mà thường thi phép vua (luật) thua lệ làng,
Vua (triều đình) chỉ bổ quan cai trị đến phủ, huyện, châu (cấp huyện bây giờ), còn lý trưởng thị xã, thôn bầu cử và trình lên quan trên duyệt cấp bằng(1). Hương ước xã Phù Lưu Thượng ghi: “Bầu lý trưởng chọn theo thể lệ nhà nước: người chăm chỉ với công việc, gia tư giàu có, được dân tín phục mới được bầu”:. Do đó có câu: “Coi vườn tược mà ước hương hoa; coi cửa nhà mà bào (bầu) lý trưởng”.
Tổ chức làng xã xưa, cho đến trước cách mạng (8-1945) rất phức tạp. Ở Thiên Lộc - Can Lộc cũng vậy. Tuy cũng là đơn vị cơ sở (có triện, tức con dấu riêng) mà tên gọi lại khác nhau: xã, thôn, phường, vạn… lại có cả tên trường. Một tên mà có nhiều đơn vị khác nhau: Phù Lưu Thượng xã, Phù lưu xã, trong đó có Phù Lưu thôn; lại Phù Lưu trường trong Ích Hậu xã… Có những đơn vị gồm những phu cáng gọi là Võng nhi phường, và một đơn vị chuyên làm thuốc cao, đan, hoàn, tán gọi là Trung Ca phường…. Có những đơn vị to nhỏ, số dân chênh lệch quá nhiều. Xã đông dân nhất là Lai Thạch có tới 1.161 đình/4830 nhân khẩu. Một số xã khác vào loại đông dân là Nguyệt Ao 609 đinh/2497 nhân khẩu, Thuần Thiện 446 đinh/1.728 nhân khẩu… nhỏ nhất là các làng Quảng Khuyến chỉ có 14 đinh/25 nhân khẩu, Yên Tập 13 đinh/50 nhân khẩu.
Dưới đây là một số nét sơ lược về đẳng cấp, ngôi thứ xã hội, chế độ ruộng đất, sưu thuế, binh dịch, hương ước, thúc ước.
I – ĐẲNG CẤP, NGÔI THỨ XÃ HỘI TRONG LÀNG XÃ
Xưa có câu: Hương đảng tiểu triều đình, nghĩa là ở làng xã cũng có thứ bậc trên dưới, có đẳng cấp, ngôi thứ…. Như một triều đình nhỏ…
Thời Lê – Nguyễn, ở làng xã nói chung, cũng như ở Can Lộc nói riêng, tùy từng thời kỳ, từng nơi gọi khác nhau nhưng ở làng xã đều có các đẳng cấp dưới đây:
1. Quan viên: bao gồm các chức sắc, chức dịch, tư văn.
Chức sắc là các quan lại văn võ (từ cửu phẩm, suất đội trở lên) còn lại chức hoặc đã về hưu, những người có học vị (tiến sĩ, cử nhân, tú tài), những viên tử (con quan tam phẩm trở lên)(1), ấm tử (con quan ngũ phẩm, tứ phẩm), tóm lại là những người có danh vọng, địa vị trong làng.
Ở nơi không có quan lại thì học trò thi nhất, nhị trường, binh lính, cũng được coi là chức sắc.
Chức dịch là những chánh, phó tổng, chánh, phó lý, ngũ hương (Hương bộ - trước là tri bộ không ở trong ngũ hương, hương bản, hương kiểm, hương mục, hương dịch) và cả những người bỏ tiền ra mua một hư chức (tri hương, tri xã (tri sự), nhiêu phu…). Chức dịch còn bao gồm kỳ mục là tổng, lý, hương… cao tuổi đã thôi việc nhưng vẫn còn uy thế, và dịch mục là những tổng, lý, hương… đương chức. Lớp kỳ mục, có nơi gọi là hào mục có tiếng nói nhiều khi quyết định, nhưng quyền lực vẫn nằm trong tay lớp đương chức.
Tư văn là những thí sinh, khóa sinh… những người có học đến một trình độ nào đó… mà chưa có học vị gì. (Nghĩa rộng thì tư văn là những người có học hành, kể cả những người đỗ đạt).
Dưới thời Pháp thì các phán sự, ký sự, tự học… cũng có phẩm hàm Nam triều và được xếp vào chức sắc(1).
Các chức vụ mới ở xã như chánh, phó tổng đoàn, bang tá… và các chức mua như tổng dụng, miễn giao, miễn sai… đều là chức dịch.
Các tổng sư, hương sư, những người đỗ tuyển sinh, yếu lược, tiểu học Pháp – Việt, cao đẳng tiểu học…. cũng đều được coi là tư văn.
Tuy nhiên muốn được làng xã coi là quan viên, lại có lệ vọng đình, phải nộp tiền vọng theo lệ làng. Hương ước xã Phù Lưu Thượng (viết năm 1854, đời Tự Đức) quy định ở các điều 7, 8, 9, 10, 11 như sau:
“Đình có lệ nạp vọng là để phân biệt các sắc nhân phẩm, phàm ngài văn do khoa trường, võ có sắc mệnh là những người đội ơn mệnh nước thọ từ 90 tuổi trở lên, là làm cho phong tục địa phương thêm đẹp. Nếu trước chưa có hương sắc, theo lệ được nộp tiền vọng 6 quan, nếu đã có hương sắc nộp tiền vọng 3 quan, thì đều được làm quan viên.
“Dân thường thọ từ 80 tuổi trở lên và các ấm tử, viên tử, bát, cửu phẩm, thư lại thực thụ, cai tổng, nếu trước chưa có hương sắc, được nạp tiền vọng 6 quan, nếu đã có hương sắc nộp tiền vọng 3 quan thì được làm chức sắc.
“Con em nhà lành có biết chút ít chữ nghĩa, tuổi ngoài 30, được nạp tiền lệ 30 quan và tiền vọng 1 quan thì được liệt vào hạng tri sự, hoặc nguyên đang là tri phủ chỉ nạp 15 quan cũng được liệt vào hạng tri sự, tri sự đứng sau chức sắc.
“Người có vốn học nghiệp đã từng đi thi, hoặc nhiều lần đỗ khóa sinh, có thực học, cho nạp tiền 10 quan và nạp tiền vọng 1 quan, thì được liệt vào hạng sinh đồ.
“Dân đinh, người nào muốn được miễn phu phen tạp dịch, cho nộp tiền 20 quan và tiền vọng 1 quan thì được liệt vào hạng nhiêu phu. Còn người tòng quân 10 năm mãn hạn chỉ phải nạp 10 quan, tiền vọng 1 quan, cũng được vào hạng nhiêu phu.
“Các hạng trên làm lễ khai sắc trừ nạp lễ cho các quan viên, chức sắc, tùy nghi. Các hạng tri sự, sinh đồ nhiêu phu đều cho nộp tiền con vật làm lễ 1 quan, tiền xôi 6 mạch, tiền rượu 3 mạch (tức 6 tiền, 3 tiền). Nếu ai trước đã nộp ở hai thôn chiếu hạng chiết trừ một nửa trình nạp lên (như tri sự 15 quan, sinh đồ 5 quan, nhiêu phu 10 quan) chỉ thu tiền vọng 1 quan và đổi lệ đặt tiền mạch điền, còn lễ khai sắc cho miễn”.
(Theo “Hương ước Hà Tĩnh”, bản dịch – 1996)
Quan viên là đẳng cấp được ưu đãi nhất trong làng xã, có quyền quyết định mọi việc của làng xã, được miễn các nghĩa vụ đối với nhà nước (thuế đinh, lao dịch, kể cả quân dịch) và mọi đóng góp công của ở làng xã.
2. Lão hạng là lớp người già từ 60 tuổi trở lên, bất kể giàu nghèo, sang hèn. Trước kia vì tuổi thọ bình quân còn thấp, nên từ 50 hoặc 55-59 đã được xếp vào lớp người già, gọi là lão hạng, 60 tuổi gọi là lão nhiêu, 60 tuổi đến trên 70 tuổi gọi là kỳ lão.
Người già lớp quan viên thì uy tín, địa vị càng lớn. Người già lớp bình dân cũng được kính nể, nhưng không có quyền hành gì. Ở những làng “trọng xỉ” (trọng người già) thì người già có thể được ngồi cùng chức sắc, dù là thuộc lớp bình dân – được xếp vào tiên chỉ (hay thủ chỉ), thứ chỉ, được ngồi vào “ba bàn”: bàn nhất, bàn nhì, bàn ba (mỗi bàn bốn cụ). Tuy nhiên, lớp già bình dân này chỉ ngồi ăn uống, chứ ít biết, ít dám việc làng.
Hương ước nhiều làng xã đều có lệ mừng lão.
Làng Tràng Lưu quy định: “tuổi 60 trở lên, tùy tuổi già đứng thứ tự. Mỗi người đều một mạch (một tiền) – (60 tuổi một mạch, 70 tuổi 2 mạch….). Ngày mừng thì đến chúc mừng ở đình để tỏ sự tiết kiệm”.
Xã Phù Lưu Thượng quy định: “Người thọ 90 tuổi trở lên được hưởng ơn nước, lễ mừng như phó bảng. Người thọ 80 tuổi trở lên, tuy chưa được hưởng ơn nước, nhưng nó làm tiệc mừng đến mời thì bản xã mừng như lễ mừng đỗ tú tài. Nếu có các hiếu tử thuận tôn, nghĩa phu, tiết phụ được hưởng ơn nước, lễ mừng như người đổ cử nhân”.
3. Dân đinh là tất cả đàn ông không thuộc hai lớp trên. Nhưng ngay trong dân đinh cũng có đắng cấp. Trước hết là hai loại dân nội tịch và dân ngoại tịch.
- Dân nội tịch là người quê gốc trong làng xã, được ghi tên vào sổ hương ẩm (hộ khẩu) chính thức, có đóng thuế thân, tuổi từ 18-50 (hay 55), thường là chủ gia đình. Loại này không kể người tàn tật; Thời thuộc Pháp còn chia ra hai hạng để đóng thuế thân: hạng tránh đinh (nộp sưu gấp đôi và được cấp thẻ bãi đỏ; hạng cùng đinh, bần cùng, nộp sưu ít hơn và được cấp thẻ bài xanh.
Dân nội tịch ngoài việc đóng thuế thân, thuế nông, còn phải chịu phu đài tạp dịch của nhà nước, kể cả quân dịch và tạp dịch, đóng đậu ở làng xã. Nhưng họ được cấp ruộng đất công và hưởng các quyền lợi khác do làng quy định.
- Dân ngoại tịch là những người ngụ cư, không được ghi tên vào sổ làng, không được hưởng chút quyền lợi nào và không được pháp luật bảo hộ; nên không phải đóng thuế, đi lính. Phần lớn họ là những người nghèo khổ, bị dân làng coi thường, có khi làng xã cũng bắt họ phải làm những công việc nặng nhọc hay bị khinh rẻ (như làm seo –mõ).
Trong hạng dân ngoại tịch, cũng có những người có uy thế như quan lại, nhà giàu, hoặc có người làm ăn khá giả, thi đỗ, hay có công lao nào đó hoặc đã ở nhiều đời… thì làng xã vẫn thừa nhận là dân nội tịch. Thế nhưng dân làng vẫn ngầm phân biệt đối xử… câu chuyện truyền ngôn sau đây là một ví dụ:
“Giải nguyên Nguyễn Như Hải từ Nghệ An vào cư trú tại làng Đông Tây, giành nhau ngôi tiên chỉ với ba anh em ông huyện họ Lê. Nhân làng tế thần, bên họ Lê cho tay chân trộm một miếng thịt tộ lén bỏ vào tráp ông Hải, rồi hô hoán lên đòi xét. Quả nhiên người ta tìm thấy miếng thịt trong tráp… quan Giải. Ông Hải uất ức vì bị làm nhục quá đáng, ban đêm, cùng con cái đào tâm bia cận ném xuống vực Trống và nguyền “Từ nay về sau, cả làng này sẽ không còn ai biết chữ nghĩa”. Từ đó, nhiều đời liền, cả làng Đông Tây không có ai dính đến khoa cử nữa. Làng Đông Tây lo quá bèn làm một lễ “sám hối” và lập miếu thờ Nguyễn Như Hải gọi là miếu quan Cống. Sau đó, làng này mới có người học hành và thành đạt”.
Ngày trước, trong đẳng cấp làng xã còn có môt hạng nữa, hạng tí ấu. Đó là lớp nhi đòng, thiếu niên (trai) từ 6- 7 tuổi đến 16,17 tuổi đã nộp tiền vọng, được ghi tên vào sổ hương ẩm thì cùng được dự vào việc phe giáp và phải đống góp vào việc tế tự như người lớn.
Phụ nữ thì không bao giờ dính đến việc làng xã, kể cả phụ nữ nhà quan, nhà giàu. Nhưng bị khinh rẻ, áp bức nhất, luôn luôn vẫn là người nghèo.
Tuy nhiên luôn có sự chuyển hóa trong các đẳng cấp ở làng xã, mặc dầu luật pháp quy định rất chặt chẽ.
Từ trước thế kỷ XIX, triều đình đã có lệnh cấm: “người đem dân đinh vào hàng chức sắc xứ 70 trượng, biếm 3 tư, người dân binh thì bị xử 20 trượng, biếm 2 tư, bắt trở lại chịu việc quan (Lịch Triều hiến chương loại chí).
Nhưng thành phần cư dân luôn biến chuyển. Trên đây đã nói về hạng dân ngoại tịch chuyển thành dân nội tịch. Dân đinh cũng vậy, có thể chuyển thành chức sắc quan viên do đỗ đạt làm quan, đi lính có sắc phong, được bầu làm lý trưởng, ngũ hương… hoặc có tiền mua các hư chức trong làng xã, hay do nhà nước bán, và, quan viên vì lý do nào đó, cũng có khi trở lại là dân đinh.
Việc chia ngôi thứ đẳng cấp ở làng xã một mặt thể hiện trật tự xã hội thời trước, mặt khác là do việc tranh giành quyền lợi, chính trị, kinh tế.. Người ta giành nhau một chỗ ngồi ở đình trung là để chiếm được ruộng đất nhiều hơn, không phải chịu thuế khóa, tạp dịch đã đành, còn để được chia phần thủ, nọng… mánh (miếng) trửa (giữa) làng hơn tràng (sàng) trong bếp, được ăn trên, ngồi trước, được nạt nộ người khác, được hãnh diện với thiên hạ. Ban Kế Bính trong sách Việt Nam phong tục nhận xét: “Tục lấy phần phản ánh tệ sĩ diện ngôi thứ, chứ không phải tục ăn tham như các tác giả phương Tây ngộ nhận”.
II- CHẾ ĐỘ RUỘNG ĐẤT – THUẾ KHÓA –
BINH DỊCH
1. Chế độ ruộng đất - ở Can Lộc cũng như ở mọi nơi, ruộng đất ở làng xã có hai hình thức sở hữu; ruộng đất công (của nhà nước và của làng xã) và ruộng đất tư.
Ruộng đất nhà nước có ruộng đất riêng của vua (Sơn lăng, tịch điền) và ruộng của nhà nước (ruộng quốc khố, đồn điền…). Loại ruộng của nhà vua và ruộng quốc khố, đồn điền… từ Lý - Trần đến Lê - Nguyễn đều không có ở trên đất Thiên Lộc - Can Lộc. Đời Lê chỉ thấy có một trường hợp: Thượng trụ quốc hồ quốc công (nơi có chép Triều quốc công) theo vua đánh Chiêm Thành, nhân đào uốn thẳng dòng sông Nghèn, đã mở ra được 72 mẫy ruộng ở Đồng Mốt, được vua ban cho làm lộc điền. Ông đã giao cho cháu ngoại họ Lê vào khai thác, lập nên làng xóm, gọi là làng Thượng Trụ. Đồng Mốt là loại đất công của nhà nước duy nhất ở Can Lộc còn được ghi chép, về sau chuyển thành ruộng tư của họ Lê. Trước đó, thời Lê sơ, trong số 5-135 mẫu lộc điền của Cương quốc công Nguyễn Xý, thì ở Thiên Lộc có 170 mẫu ở 1 xã (chưa rõ xã nào).
Ruộng đất công của làng xã, thì ở đâu cũng có. Loại ruộng đất này về danh nghĩa thuộc sở hữu nhà nước (đời Lý –- Trần gọi là “quan điền bản xã”, đời Lê gọi là “xã dân công điền”) nhưng do làng xã quản lý, phân phối, định cách sử dụng và định mức tô. Các triều đại phong kiến đều cấm ban ruộng đất công mà chỉ cho thuê ngắn hạn hoặc quân cấp cho dân đinh (mượn ruộng) để ngăn chặn việc tư hữu hóa.
Mãi đến thế kỷ XIX, xu thế tư hữu hóa ruộng đất công trở thành thông lệ, năm 1871, triều đình Tự Đức nhà Nguyễn vì quân nhu thiếu hụt đã tính chuyện bán ruộng công của làng. Thời thuộc Pháp lại có đạo dụ của Khải Định ngày 4-6-1923 ấn định một số quy tắc để cho ruộng công làng xã thành mồi ngon của bọn chấp chiếm, biến thành ruộng tư.
Ruộng đất công làng xã là ruộng xưa để lại, đất bãi bồi, đất đồi núi mới khai thác để sản xuất, được sử dụng dưới các hình thức.
- Cho thuê hoặc bán mùa (không quá 3 năm) cho dân trong làng để lấy tô hoặc lấy tiền chi phí.
- Quân cấp cho người không có, hoặc có ít ruộng đất (cho thuê).
- Trích lại làm ruộng tế (cho đền miếu, chùa chiền sử dụng lâu dài hay có kỳ hạn).
Điều ước thôn Tràng Lưu (năm 1923) quy định:
“Các thửa ruộng công đều cấp cho toàn dân các ấp luân lưu canh tác, hàng năm thu hoa lợp nhập vào kho nghĩa thương cùng hưởng lộc chung đã thành nề nếp, không được vì lý do gì mà bỏ hoặc bán đi (điều 7).
“Các thửa ruộng tế, ruộng giỗ thì chiếu theo sổ hương ấm, cứ theo thứ tự luân phiên canh tác, nếu bỏ hoang hoặc làm ruộng không tốt thì bị phạt” (điều 6)
Hương ước xã Phù Lưu Thượng (1854) quy định, có các loại:
“Ruộng quan viên 5 mẫu… gồm thừa liền nhau. Số ruộng này cứ chiếu khoa trường và quan viên văn võ mà chia ra các hạng khác nhau cấp cho, như khoa trường đệ nhất giáp 5 phần, đệ nhị giáp 4 phần, đệ tam giáp 3 phần, phó bảng - cử nhân 2 phần, tú tài 1 phần; võ nhất phẩm hưởng phần như người nhất giáp, văn tam phẩm – võ tứ phẩm được hưởng phần như người đỗ nhị giáp v.v.. (điều 27)
“Ruộng dưỡng lão… tổng cộng 19 thửa gần nhau, lệ phân cấp người thọ 100 tuổi chiểu cấp 4 phần, thọ 90 tuổi trở lên cấp mỗi người 3 phần, thọ 80 tuổi trở lên cấp mỗi người 2 phần v..v (điều 28).
“Ruộng binh 20 mẫu… (điều 29 – xem mục Binh dịch).
“Ruộng khuyến học 4 mẫu 10 thước… bản xã hàng năm mời thầy (là cử nhân hay tù tài) về dạy cho học trò trong xã. Số lượng ấy giao cho các lân trưởng cày cấy, hàng năm chiếu thu thóc… Số thóc ấy dùng để nuôi thầy. Lại đặt tiền vay lãi 75 quan, giao cho các lân trưởng luân lưu giữ. Mỗi vụ chiếu thu tiền lãi 15 quan, nạp cho thầy để làm lễ thúc tu… (điều 30)”.
Chế độ tư hữu về ruộng đất đã được nhà nước thừa nhận cùng với quyền mua bán và nghĩa vụ đóng thuế ruộng đất từ đời Lý, thế kỷ X.
Ruộng đất tư cho đến thế XIX gồm nhiều loại:
- Loại “bản thôn điền thổ” là ruộng tư của làng xã do làng xã bỏ tiền mua tạu; làng xã có quyền mua bán, quản lý, sử dụng:
- Loại ruộng đền, chùa, nhà thờ, nhà chung, có nguồn gốc tư (do tư nhân cùng hiến, hoặc đền, chùa, nhà thờ, nhà chung, bỏ tiền mua tạu – không phải loại làng xã cấp hoặc chiếm hữu).
- Loại ruộng đất của phe giáp mua tạu từ ruộng tư, các loại ruộng hậu, ruộng hương hỏa… của nhân dân v.v… do tư tư nhân cúng hoặc bỏ tiền mua tạu…
Đời Lê, Tào quân công Ngô Phúc Vạn đã giao 30 mẫu làm ruộng tế ở am Phúc Quy (Sơn Lộc bây giờ), 30 mẫu làm ruộng tế ở các thôn Nha Kỳ, Gia Lạc, Thổ Sơn, Sùng Vinh… 50 mẫu ruộng họ ở Thổ Sơn…
Đời Nguyễn, ông tổ họ Nguyễn Đức ở Ích Hậu cũng biến 20 mẫu làm ruộng hương hỏa, ruộng tế, ruộng binh, ruộng học…
Các loại ruộng nà chuyển từ ruộng tư cá thể sang ruộng tư tập thể.
- Loại ruộng đất tư do cá nhân tổ chức khai khẩn (được nhà nước công nhận) hoặc mua tạu cho gia đình mình.
Vào thế kỷ XVII, Ngô Phúc Vạn (1577-1652) ở Trảo Nha đã sử dụng quân lính, dân phu khai khẩn, đồng thời chiếm đoạn thêm, đã có 2000 mẫu ruộng ở 18 trang trong 18 xã thôn từ vùng Thái Hà, Ngọc Trác, Khánh Lộc… xuống đến Thổ Sơn, Nha Kỳ, Gia Lạc, Sùng Vinh… (từ Thạch Ngọc – Thạch Hà qua Sơn Lộc, Mỹ Lộc, Quang Lộc, Xuân Lộc, đến Đại Lộc, Tiến Lộc ngày nay). Có thể đời Lê, Ngô Phúc Vạn là người chiếm hữu ruộng đất nhiều nhất ở Thiên Lộc.
Một người có uy thế khá lớn và cũng chiếm hữu nhiều ruộng đất ở Thiên Lộc là Nguyễn Văn Giai, cha nuôi Ngô Phúc Vạn. Chính vùng đất Ngô Phúc Vạn xây dựng dinh cơ ở đông nam rú Nghèn là do Nguyễn Văn Giai cấp cho.
Thời này, Thiên Lộc còn có nhiều cự tộc văn võ khác (họ Dương ở Bạt Trạc, họ Nguyễn Huy ở Tràng Lưu, họ Lê ở Tả Thượng, họ Hà ở Tỉnh Thạch…) cũng chiếm nhiều ruộng đất.
Dưới triều Nguyễn, đến nay, chưa có được những tư liệu về ruộng đất của Can Lộc. Chỉ biết, qua cuộc điều tra nông thôn năm 1951, năm 1930 cả huyện có 2.332 ha, tức là dưới 5.000 mẫu ruộng công của làng xã, thì 370 hộ nhà giàu, 240 hộ quan lại chức sắc và 5 hộ nhà chung chiếm đến 1.663 ha (3.326 mẫu) từ 68,7% - về ruộng đất tư, địa chủ chiếm hữu nhiều nhất là Trần Văn Xu ở Gia Hanh, 500 mẫu.
Một vài số liệu khác đáng chú ý là: năm 1938 cả huyện có 19.064 mẫu ruộng (9.532 ha); năm 1944 có 21.200 mẫu (10.600 ha); năm 1958, sau giảm tô, có khoảng 11.000 ha; và năm 1994 đất nông nghiệp toàn huyện là 14.683 ha, trong đó đất trồng lúa là 11.390 ha, đất trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày là 1.542 ha; đất trồng cây lưu niê là 216 ha…Theo dự kiến thì đến năm 2000 đất nông nghiệp sẽ tăng lên 16.250 ha/37.302 ha đất đai tự nhiên toàn huyện.
Từ xưa, dưới các triều đại, ruộng đất công, tư đều phải nộp thuế cho Nhà nước. Nhà nước thừa nhận và bảo hộ sở hữu ruộng đất tư.
Sau cách mạng, năm 1949, Bộ Nội vụ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng đã khẳng định, thừa nhận ruộng đất tư nhân.
Nhưng về sau, theo Hiến Pháp, thì tất cả ruộng đất (cũng như sông biển, rừng núi) đều thuộc sở hữu nhà nước. Tùy từng thời kỳ lịch sử, để việc sử dụng ruộng đất hợp lý và có hiệu quả nhất, nhà nước đã có những quy định thích hợp: giao cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, và ngày nay giao cho hộ nông dân.
2. Thuế khóa: Thời nào, chế độ nào, thì thuế khóa cũng là nghĩa vụ của nhân dân phải đóng góp cho nhà nước. Xưa kia có 2 thứ thuế chủ yếu là thuế đinh và thuế điền. Về sau có thêm các thứ thuế buôn bán và thuế biệt nạp như các nghề công nghiệp (khai khoáng…), nghề thủ công (thợ rèn, thợ bạc, làm muối v.v..) khai thác lâm sản, hải sản (gỗ, trầm, quế, đồi mồi, ngọc trai). Thuế biệt nạp thường không nộp bằng tiền gạo mà nộp bằng hiện vật. Người khai thác đồng phải nộp đồng; thợ rèn nộp dao rựa, dao mác; lấy quế nộp vỏ quế; mò ngọc trai nộp ngọc v.v..
Thuế đinh(1) tức thuế thân (thân dung) là loại thuế đánh vào đầu đinh (đàn ông 18-59 tuổi) (1). Năm Bảo Thái thứ 3 đời Lê Dụ Tôn (1722) quy định một suất đinh mỗi năm phải đóng 1 quan 2 tiền quý và 4 bát gạo. Sinh đồ, lão hạng, hoàng đinh(2) thu một nửa, năm thứ 5 (1724), Thanh Hóa, Nghệ An (tức Nghệ, Tĩnh) được miễn thuế thân. Ngoài thuế thân, cón có thuế thu theo hộ gọi là hộ điệu để quan chi vào việc tế tự, làm kho tàng, đường sá, cầu cống, theo lệ năm thứ 3 (1722) mỗi đinh một năm nộp 2 kỳ, mỗi kỳ 6 tiền, đến năm thứ 9 (1728) thì Thanh Hoa, Nghệ An (Nghệ, Tĩnh) cũng được miễn. Đến đời Tây Sơn không thu tiền điệu nữa. Đời Nguyễn, lệ định từ Nghệ An (Nghệ, Tĩnh) ra đến Nội, Ngoại Thanh Hoa (Thanh Hóa, Ninh Bình) mỗi suất đồng niên phải chịu thuế thân 1 quan 2 tiền và mân tiền, một tiền, cước mễ (gạo tổn phí) hai bát.
Dưới thời thuộc Pháp, thuế thân (sưu) vẫn duy trì và từng thời gian lại tăng dần lên. Thuế chia làm hai hạng, hạng tráng đinh mỗi suát một năm là 1,50 đồng (Đông Dương) sau tăng lên đến 2,50 đồng (Đông Dương) hạng bần cùng từ 0,60 sau tăng lên đến 1,20 đồng mỗi suất.
Người già (60 tuổi trở lên), người tàn tật, quân nhân, được miễn sưu.
Huyện Can Lộc năm 1915 phải nộp 10.500 đồng (Đông Dương) tiền sưu và 4.900 đồng tiền lao dịch (điệu), thì năm 1925 phải nộp 12.100 đồng tiền sưu và 5.513 đồng tiền lao dịch. Năm 1944, số tiền sưu cả huyện là 10.700 đồng không kể số được miễn cả huyện là 4.253 đồng (Đông Dương). Đây là chưa kể tỷ lệ làng xã phù thu lạm bổ, bắt dân phải chịu.
Thuế điền thổ (gọi là tô) có từ đời Lý Thái Tổ, đến năm Bảo Thái thứ 3 đời Lê Dụ Tôn (1722) cũng quy định lại (1). Ruộng công mỗi mẫu 8 tiền loại một vụ thì nộp 1/3 bằng thóc, loại 2 vụ thì nộp 2/3 bằng thóc. Đất bãi công theo số hiện có trồng, chia làm 2 nửa, một nửa cho vào loại trồng dâu, một nửa cho vào loại trồng màu, mỗi mẫu phải nộp 1 quan, 2 tiền. Nếu trồng dâu thì một nửa phải nộp bằng tơ, một nén thơ (10 lạng) tính giá 8 tiền. Ruộng từ thì loại 2 vụ mỗi mẫu nộp 3 tiền, loại 1 vụ nộp 2 tiền.
Đời Nguyễn Gia Long định lại thuế điền chia làm 3 hạng:
Nhất đẳng điền đồng niên mỗi mẫu nộp 20 thăng, nhị đẳng điền 15 thăng, tam đẳng điền 10 thăng; còn ruộng mùa đông niên phải nộp 10 thăng. Nghệ An (Nghệ, Tĩnh) trở ra Bắc Thành mỗi năm thu làm 2 kỳ vào vụ ba và vụ đông.
Thời thuộc Pháp đến trước Cách mạng, ruộng chia làm 4 hạng để nộp thuế, còn đất chia làm 6 hạng Thuế ruộng đất năm 1916 là 0,55 đồng (Đông Dương) mỗi mẫu, năm 1917 tăng lên hơn 0,64 đồng mỗi mẫu, và năm 1944 tăng lên tới trên 2 đồng mỗi mẫu. Riêng huyện Can Lộc năm 1925 số thuế phải đóng tất cả là 16.100 đồng (Đông Dương), năm 1925 số thuế lên tới 30.115 đồng (Đông Dương).
Trong các loại thuế trực thu, ngoài thuế đinh (sưu) thuế điền còn có thuế môn bài (công thương), thuế tàu bè xe cộ; thuế gián thu có các loại thế nhà “Đoan” (thương chính), lâm nghiệp, bưu chính, trước bạ quỹ hỗ trợ… Nhưng các loại thuế này ở Can Lộc rất ít ỏi, không đáng kể.
3. Binh dịch – Lệ xưa, các làng phải chịu số suất lính tùy theo số đinh (nghĩa là số đàn ông khỏe mạnh tuổi từ 18 đến 50) đã kê khai trong sổ làng nộp lên quan trên. Nhưng các làng đều khai không đúng, nên số lính lấy theo tỷ lệ cao thấp mỗi đợt một khác. Đời Lê, đầu thế kỷ XVII, cứ 5 đinh lấy một lính. Đến đầu đời Cảnh Hưng, tăng số lính Thanh – Nghệ, cứ 3 đinh lấy 1 lính. Đời Tây Sơn (1792) có lệ cứ 5 đinh lấy 1 lính. Từ đầu đời Nguyễn Gia Long (1802), cứ 7 đinh lấy 1 lính. Thế nhưng có một số làng số đinh quá ít (như làng Quảng Khuyến, làng Yên Tập cho đến cuối đời Nguyễn cũng chỉ có trên 10 suất, hầu hết đều bị bệnh sốt rét), hoặc có những làng xã có năm, bảy chục suất mà dân trốn tránh thì phải góp tiền, bỏ ruộng ra thuê người nghèo nơi khác đi lính hộ, để nộp cho đủ số… Những làng đã nộp đủ số, nếu có người đào ngũ, thì làng phải bắt thêm, nộp bù.
Thời thuộc Pháp, tuy danh nghĩa là lính (ứng) mộ, nhưng cũng là chia đầu lính theo số đinh. Làng xã phải có đủ số quy định.
Người đi lính, ngoài những khoản được hưởng thụ, khi tại ngũ và sau khi về của nhà nước, hầu hết các làng xã đều dành một số ruộng nhiều ít tùy nơi để chia cho gia đình, gọi là “ruộng binh”. Ví như, Hương ước xã Phù Lưu Thượng quy định: “Đặt ruộng binh đinh 20 mẫu tại xứ đồng Hổ, căn cứ số binh đinh đang tại ngũ mà phân cấp. Nếu như có khuyết mạch, ruộng ấy giao lại cho bản xã dùng vào việc công” (Điều 29).
... Khi anh làm bếp việc (?) - Được hai trự (chữ) quân bình (3) - Về xã hộ, xã binh - Rọng (ruộng) công điền hai mẫu - Tiền quần áo hai vụ - Tiền diêm (?) phụ cho dân – Lính đã sướng trong thân - Không ai hơn lính nữa … (vè).
II – HƯƠNG ƯỚC –THÚC ƯỚC
Cùng với luật nước, xưa kia còn có lệ làng. Lệ làng được biểu hiện dưới hình thức phong tục, tập quán (phi văn bản) và hình thức văn bản chính thức: Hương ước – Thúc ước:
1. Hương ước (có nơi dùng chữ Điều ước hay Điều lệ) là một văn bản có tính chất pháp lý, do làng xã đặt ra, không trái với luật nước, quy định những quyền lợi và nghĩa vụ của các cư dân trong từng làng xã, buộc mọi người phải tuân theo và thực hiện.
Tác giả hương ước, do làng cử trong lớp quan viên, thường đó là các nhà khoa bảng, hoặc các chức sắc, chức dịch nhiều chữ nghĩa và thông tạo việc làng xã. Nội dun chủ yếu thường là những quy định rất cụ thể các điều khoản về tế lễ thần thánh, vị trí và phần được hưởng ở chốn đình trung, thuế khóa, phu dịch đối với nhà nước, phân phối ruộng đất công, bảo vệ rừng núi, sông hói, đê đập, việc thủy lợi, đường sá, cầu cống, việc tuần phòng ngăn chặn trộm cướp, việc tang, việc hiếu, việc xây dựng nghĩa thương, việc khuyến học, yễn lão, việc giữ gìn thuần phong mỹ tục… và nhiều việc khác, với những chi tiết có khi rất tỉ mỉ.
Nghiên cứu một số Hương ước xưa của các làng xx ở Hà Tĩnh, giáo sư Vũ Ngọc Khánh có mấy nhận xét đáng chú ý là:
- Các hương ước đều đặt vấn đề tự lên hàng đầu.
- Vấn đề thứ hai nổi lên là việc phân chia cỗ bàn trong những ngày tế lễ, vấn đề xếp ngôi thứ đứng ngồi ở đình đền.
- Thứ ba là khuynh hướng cấm phạt, cũng có những khoản động viên khen thưởng, nhưng các lệ phạt được nêu ra khá nhiều.
- Điều nổi bật nữa là ý thức tôn trọng sự học, tôn vinh các nhà khoa cử, có ý thức trọng lão.
- Một số hương ước cho thấy người dân trong làng đó đặc biệt chú ý đến việc quân cấp ruộng đất, khuyến khích việc nông trang, xây dựng quang cảnh làng xã… (Suy nghĩ bước đầu về những bản hương ước Hà Tĩnh – Hương ước Hà Tĩnh, 1996).
Ngày nay, các Hương ước cũ đã thất lạc hầu hết, trong cuốn Hương ước Hà Tĩnh do Phó Tiến sỹ Võ Quang Trọng và Phạm Quỳnh Phương sưu tầm, Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh xuất bản, chỉ có 20 bản, trong đó có Hương ước xã Phù Lưu Thượng (nay là xã Hồng Lộc) lập năm Tự Đức thứ 7 (1854) sao lại năm Bảo Đại thứ 17 (1942) và bản Điều ước thôn Trường Lưu, lập năm Khải Định thứ 8 (1923), mà ở trên đã trích giới thiệu:
Bản Hương ước xã Phù Lưu Thượng do Tiến sĩ Tuần phủ Mai Thế Quý và Cử nhân Ngự sử Phan Huân soạn, có 10 chương, 59 điều.
1. Lệ bầu bán (6 điều: từ điều 1 đến điều 6)
2. Lệ vọng đình (5 điều: từ điều 7 đến điều 11)
3. Lệ tế tự (9 điều: từ điều 12 đến điều 20)
4. Lệ sai điền (10 điều: từ điều 21 đến điều 30)
5. Lệ biếu (1 điều, điều 31)
6. Lệ khánh họ (2 điều, các điều 32 và 33.
7. Lệ hôn nhân ( 1 điều; điều 34)
8. Lệ tang hiếu (6 điều: từ điều 35 đến điều 40)
9. Lệ phạt khoán (17 điều: từ điều 41 đến điều 57)
10. Lệ thứ bậc (2 điều: các điều 58 và 59)
Bản điều ước thôn Trường Lưu (xã Trường Lưu-Trường Lộc hiện nay) không nói rõ người soạn, ở dưới chhir có các chủ thủ, giám thủ, hào lão ký tên và người sao lại là phó lý Nguyễn Huy Phúc. Điều ước chung có 35 điều, nói về phong hóa, cúng tế nơi đình sở đền chùa, ruộng tế, ruộng đất công, núi non, kho nghĩa thương, tiền của công, đường sá, đê điều, cầu cống, giếng nước, hồ ao, vệ sinh, sổ hương ẩm, hội họp, xử khi có sự bất hòa, lễ tết, việc thu thuế, lễ mừng thi đỗ thăng quan, mừng lão, an ninh thôn xóm, bảo vệ mùa màng… lại có riêng điều ước về tế lễ (6 điều), điều uớc về hôn lễ (8 điều); Các điều ước về tang lễ (5 điều); ở đây còn kèm theo một điều, điều 6, nói về việc cấm nấu rượu lậu (?).
Các bản Hương ước, Điều ước trên đây nói chung đều không phù hợp với tình hình làng xã hiện nay, nhưng chúng ta cũng rất cần tham khảo để xây dựng các quy ước nông thôn hiện đại.
Chính trên cơ sở rút kinh nghiệm bản điều ước cũ, và nghiên cứu tình hình cụ thể ở địa phương hiện tại mà xã Trường Lộc đã xây dựng bản Quy ước nếp sống văn hóa làng năm 1995.
- Làng Kim Chùy xã Tân Lộc cũng đã có bản Quy ước về xây dựng nếp sống văn hóa và trật tự an ninh nông thôn, soạn năm 1995 (1).
2. Văn thúc ước: Ngày xưa, cùng với các bản Hương ước, nhiều làng xã nhất là làng xã có người học hành khoa cử, còn có thêm một loại văn bản khác cổ vũ cho thuần phong mỹ tục. Văn thúc ước (Phó giáo sư Trần Bá Chi dùng chữ Văn chúc ước).
Nếu Hương ước là văn bản mang tính pháp lý thì Văn Thúc ước cũng là một loại văn bản “chính quy” mang tính giáo hóa, được đồng dân thượng hạ trong làng tuân thủ.
Đầu xuân hàng năm, vào ngày Nguyên Đán (mồng một tết) hoặc khai hạ (mồng bảy) có nơi vào tế tháng 6 âm lịch), dân làng họp tại sân đình để nghe hào trưởng đọc lại Văn thúc ước. Ai nấy đều coi đây là điều thiêng liêng, đều tự hào về truyền thống tốt đẹp của làng.
Năm nào cũng nghe đọc, hơn nữa đây là một tác phẩm văn chương do người hay chữ viết ra nên được nhiều người sao chép và thuộc lòng.
Văn thúc ước viết theo thể biền ngẫu và dùng các điền tích chữ nghĩa sáo mòn, nhưng khi được người tốt giọng đọc lên thì nghe cũng hấp dẫn.
Nội dung bài văn thường có các phần: miêu tả cảnh quan làng xã, truyền thống văn hóa lịch sử của địa phương, nhằm cổ vũ mọi người giữ gìn mỹ tục thuần phong, chăm chỉ làm ăn, sống có tình nghĩa, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau, tuân theo lệ làng phép nước.
Tuy là một tác phẩm không dài, nhưng nội dung nhằm tôn vinh địa phương, nên ngày trước rất có tác dụng giáo hóa.
Dưới đây xin giới thiệu bài Văn thúc ước làng Thuần Chân (nay là xã Thuần Thiện – Phúc Lộc) do nhà Nho lê Hồng Hàn viết đời Minh Mệnh (1820-1840), để bạn đọc tham khảo.
Nay mừng:
Non xuân gáy phượng.
Cõi hạc chơi lân.
Chín bệ thảnh thơi xiêm áo.
Bốn phương êm ấm chiếu chăn.
Dặm hoa cù quạt gió gương trăng, phao tuôn đêm ha,
Miền tử lý gậy cưu, ngựa trúc, đầm ấm hơi xuân.
Áng ta nay:
Phong quang năm thức,
Cảnh sắc mười phân.
Đem tám cõi vào đồ cực lạc
Họp bốn mùa về thú khả phân.
Núi Hồng sơn lổm nhổm ngàn gò, tranh thúy vũ mây thêu chữ gấm;
Sông Ngư thủy chằm hoằm một dải, sóng đào hoa gió dán màu ngân.
Gò Cánh Phượng chăng ngang, cột trụ thạch ngăn dòng lưu thủy,
Suối Mũi Rồng tuôn xuống, nước san hồ xả mạch thiên tân.
Cảnh thanh tú bầu trời vững thái;
Đất thiêng liêng thụy khí nhân huân.
Văn ba tầng cửa Vũ dương vây, cơn dâu bể chẳng mòn bia tính tự;
Võ muôn dặm trướng hùm trổ vuốt, khoán sơn hà còn rạng dáng đai cân.
Thanh bảo kiếm khí thiêng còn vượng;
Đóa hoàng hóa điềm ứng hầu gần.
Dọc ngan lễ nhạc ba nghìn; trường hoa các ra tay đoạt giáp;
Hớn hở tang bồng muôn dặm, hội phong vân phí chí phân lân.
Ngoài nội Hạ vui vầy bốn thu;
Trong trời Nghiêu yên nghiệp bốn dân.
Sĩ rừng nh nhả ngọc phun châu, vể cẩm tú giai thân muôn trượng;
Nông nội Hạ cày mây cuốc nguyệt, thơ “Sương dương” lần nghĩ mười vần.
Công thấp cao lưỡi búa chàng Ban, khuôn bốn bể vuông tròn tấc thước;
Thương ngang dọc cánh buồm chàng Phạm, giá chín châu nặng nhẹ đồng cân.
Ngư dòng Đào quen thú giang hồ, chèo phong nguyệt phao tuôn dòng nước trí;
Tiều lĩnh thắm vui miền tuyền thạch, búa yên hà đủng đỉnh mái non nhân.
Canh vui vầy thôn khói lân mây, thơ “Lương phủ” thấp cao miền lục dã;
Mục thong thả màn hoa chiếu cỏ, khúc dác sương chắp nối buổi tà ngân.
Bãi lạc trận nam, sen chen mặt nước;
Hiên mai buổi mát, quế bóng trăng sân
Đâu đó đà vẹn chữ thu thành, nhà nam bắc nổi tiếng đàn cấp túc;
Đầu gót cũng nhờ ơn huyền hỗ, lũ trẻ già vui khúc hát nam huân
Mưa xối ngửa trông ơn thánh;
Tiết lành mở tiệc thơ thần.
Trên nhơn nhơn hai chữ anh linh, vẻ cẩm tú rỡ phô trăm thức.
Dưới khăn khắn một lòng thành kính, chén chi lan vơi chước đôi tuần.
Ngoài tám tiếng học vần tơ trúc;
Trong hai hàng rạng nếp trâm thân.
Đào gióng giã cung bắc cung nam, trên chín bệ ngâm câu phục đán;
Kép dìu dặt ngón đàn ngón sáo, dưới muôn dân vui chữ nghinh tân.
Ấy là phép tiên công khảo thí.
Này là lời dặn bảo hươn lân.
Gảy khúc cầm khuyên chữ phòng dâm, trinh thục khen người sông Hán;
Nghĩ câu hát ghi lời tiết hạnh, kiệm cần học thói nước Mân.
Chớ theo thói ong mê bướm luyến;
Mới nên điều tục mỹ phong thuần.
Quan sang, dân giàu, người có, của có;
Đâu hơn huyện Can, xã Nội, thôn Chân.
* Lê Hồng Hàn sinh khoảng đời Minh Mênh, là con của thủ khoa trường Nghệ Lê Sĩ Lạng, dòng dõi các tiến sĩ: Lê Sỹ Triêm, Lê Sỹ Bàng đời Lê, có tài liệu chép lúc trẻ ông được xép vào hàng “Thiên Lộc tứ hổ”, và đỗ thi hương, nhưng có tài liệu lại nói ông mất lúc 15 tuổi, chưa đi thi.
* Bài văn trên đây do Thanh Minh sưu tầm và phiên âm quốc ngữ, đã in trong “Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ”.
PHẦN THỨ BA
MỘT VÙNG VĂN HÓA
Thiên Lộc – Can Lộc là vùng kinh tế nông nghiệp quan trọng của tỉnh Hà Tĩnh, đồng thời cũng là một tiểu vùng văn hóa đậm sắc thái riêng của xứ Nghệ.
Đây là nơi có di chỉ đá mới hậu kỳ Rú Nghèn thì cũng là nơi xuất hiện, lưu giữ những huyền thoại về thời đại các vua Hùng; có một làng hát phường vải Tràng Lưu và có một nữ thần hát ví Ngàn Hống; có một “Sạc Sơn tứ diện công hầu” lại có một dòng họ “Trảo Nha thế tướng…”. Có những vị Thám hoa, Tiến sĩ lỗi lạc, lại có những nhà văn hóa, nhà khoa học tiếng tăm; có một Xuân Diệu bên cạnh một Nguyễn Huy Tự, một Nguyễn Trạch bên cạnh một Nguyễn Hàng Chi… một Ngã ba Nghèn còn thêm một Ngã ba Đồng Lộc…
Phần này gồm 5 chương giới thiệu sơ lược về tiểu vùng văn hóa đặc sức Thiên - Can Lộc.
1. Văn hóa dân gian
2. Học hành - Khoa cử
3. Văn chương Nghệ thuật khoa học - Tác giả và tác phẩm
4. Tín ngưỡng - tôn giáo
5. Danh thắng - Di tích.
CHƯƠNG I
VĂN HÓA DÂN GIAN
Suốt quá trình lịch sử dân tộc, nhân dân vùng “đại giang dĩ nam” – sông Cả trở vào – vùng Thiên Lộc – Can Lộc, ven tây nam Ngàn Hống, vừa tính kế sinh nhai, mở mang cơ nghiệp, vừa tạo ra, tích lũy được một kho tàng văn hóa phong phú, trong đó văn hóa dân gian ngày càng phát triển, càng giàu có, với nguồn “tự tạo” và nguồn vay mượn, từ đời này sang đời khác, đã được trau chuốt, bổ sung thêm hay, thêm đẹp, nhất là thêm đậm đà sắc thái riêng. Đến nay, dù thời gian và sự vô tâm của con người đã để mất mát đi phần lớn, thì những gì còn lại vẫn là một khó báu, đủ chứng minh cho trí tuệ và tình cảm của lớp lớp người đi trước trên vùng đất này. Kho báu ấy bao gồm vốn trí thức dân gian, nghệ thuật dân gian, những phong tục tập quán trong lễ nghi, sinh hoạt và các mặt hoạt động văn hóa khác trong dân gian.
1. Tri thức dân gian
Tri thức dân gian được ứng dụng hàng ngày trong đời sống của quảng đại nhân dân, thường được đúc kết bằng ngữ văn (tục ngữ, phương ngôn, ca, vè…) để dễ nhớ và dễ truyền bá. Đó là những kinh nghiệm trong sản xuất, trong ứng xử xã hội, những hiểu biết về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp, về y dược, thiên văn, thủy văn, địa lý, lịch sử, triết lý…
Biết sự trời mười đời không đói (hay không khó).
Dân gian khẳng định: Muốn sống được phải biết sự trời (và sự đời), phải có tri thức. Tri thức dân gian được đúc rút từ kinh nghiệm sống qua nhiều người, nhiều đời.
Trước tiên người nông dân phải biết “sự trời” phải có tri thức về thiên văn, thủy văn.
Mưa, nắng, thời tiết có ảnh hưởng đến mùa màng và đời sống. Con người có thể đoán biết được thời tiết qua các hiện tượng tự nhiên.
Dân Thiên Lộc- Can Lộc cũng vận dụng những kinh nghiệm chung như:
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng bay vừa thì nhim (nhâm).
- Chuồn chuồn đã dạo không bạo (bão) thì lụt.
- Hâm mốt Lê Lai, hâm hai Lê Lợi v.v…
Nhưng ở đây cũng có những kinh nghiệm riêng:
- Rú Hống mang đai, rú Cài đội mạo (mũ).
- Làm trai cho biết sự trời,
Mây bọc Ngàn Hống mấy đời cũng mưa.
- Đời cha cho chí đời ông,
Làng Phan (xá) xuống đồng chẳng gió thì mưa.
- Chớp Eo dọn nhà không kịp.
Cày reo Treo khóc; Treo khóc Sóc reo.
(Cày, ở Thạch Hà và Sóc ở Can Lộc, xưa làm khoai nhiều, mong có nắng, còn Treo ở Can Lộc nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh, cấy lúa, lại cần mưa để có đủ nước) v.v…
Ở Can Lộc, cũng như ở các nơi khác, dân đi rú (rừng) đều biết mùa hạ, sớm mai có mưa thì không mưa lâu, nên có câu Mưa sớm mai mài rạ (rựa) đi rú (rừng). Còn ở vùng sông biển đều thuộc Bài ca con nước.
*
* *
Tri thức địa lý dân gian ở Thiên Lộc - Can Lộc cũng khá phong phú: Đó là những câu, những bài nói về địa danh, địa hình, địa thế:
- Rú Bờng, rú Bể, rú Bin,
Ba rú họp lại, rú mô ghin (gần) em về.
Bài vè Làng Yên Tập (Tân Lộc) kể một tràng tên 50 cánh đồng ; từ : Đồng có đồng Nhà Rạng -có đồng Đoác, Bờ Lau - Đất lắm nhụy nhiều màu - Đồng Tiên sư hạng nhất.. đến, Cụp Ngự tiền biệt lập - Đối diện nhóm Mồng ga - Nhìn bãi rú bao la - Đò Nương Cau, Đồng Chợ…
Những người đi củi, đi tranh, rất thuộc các động, các dốc trên núi Hồng Lĩnh qua những câu hất:
- Động Cơn Mai thì dốc,
Động Trộ Đó thì dài
Ra đến động Hai Vai
Thậm chừng chi là khỏe.
- Thứ nhất là dốc Cơn Da,
Thứ nhì Cơn Trện, thứ ba Hòng Hòng.
- Anh không nhớ khi lên dốc Cơn Bạng
Anh không nhớ khi xuống dốc Động Chùa.
Say vì duyên gì ngãi chớ thuốc bùa không say.
- Đi qua trước cửa làng Đông
Nhìn lên Rú Nậy, chin (chân) không muốn dời.
- Em về Ba Xã mần (làm) chi
Đồng điền thì ít tứ vi chẳng còn.
Ba Xã có cơn (cây) da dù,
Em về Ba Xã đi chợ Lù cho ghin (gần).
- Nhà em ở bên tê (kia) Cầu Trù,
Có bụi tre rậm rậm, có bụi trù (trầu) mới lôông (trồng)…
Lại có những câu về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, tiếng nói từng địa phương:
- Dạo phong cảnh Thường Nga,
Chốn sum vầy đệ nhất,
Ở trong trời đất,
Khéo con tạo lập lường,
Ở trửa (giữa) đất bình dương,
Mà đột nhiên sơn (núi) mọc…
Làng Phan thì tranh ráng,
Ích Hậu thì vải bông.
Nỏ ngày nào ngồi không…
- Tháng chín thì quýt đỏ khu (đít)
Khẻ Đạu, Nhà Cại bỏ tru (trâu) không rèo (chăn).
- Muốn tắm mát thì ra giếng Đoài,
Muốn lấy vợ đẹp hỏi ngài (người) Tràng Lưu.
- Trò Kẻ Lù, cù Kẻ Chòi
- Thuốc Trung Ca, ga (gà) chợ Huyện.
- Trên ta ăn nói dễ nghe.
Dưới tui (tôi) Bà Xã nói trẹt bè loe như địa đèn…
Các bài vè phong thổ như: Phong cảnh Thường Nga, Vè làng Yên Tập, Phù Lưu Thượng xã… cùng bài ca Tràng Lưu giai sự vịnh (của Nguyễn Huy Cừ), các bài vè nhật trình Nhật trình đi đường biển, Tiến bạn ra tù v.v… cũng như những câu dẫn ở trên chủ yếu nêu những đặc trưng về Địa - văn hóa, còn bài Địa dư tổng Phù Lưu (của Đào Thúc Hợp) thật sự là một bài địa lý đơn thuần:
Xem trong bảy tổng huyện ta
Phù Lưu là một, tổng nhà nên hay.
Giáp giới tổng Nội phía tây,
Đông cùng đại hải, nam nay Thach Hà.
Nghi Xuân phía bắc nhìn qua,
Hồng Sơn một dải ngăn ra đôi đường.
*
* *
Kỹ thuật dân gian là tất cả những tri thức tích lũy được trong quá trình lao động sản cuất hàng nghìn năm của nông dân, ngư dân và thợ thủ công.
Nông dân có những kinh nghiệm trồng trọt chăn nuôi rất quý báu, đúc kết thành những câu ngắn ngọn mà khóa học hiện đại cũng phải thừa nhận, ví như trồng trọt là: Nhất nước nhì phân, tam cần, tứ giống.
Về kinh nghiệm sản xuất được đúc thành văn thì ở Thiên Lộc cũng lưu truyền và vận dụng như các nơi khác, trừ một số rất ít được sáng tạo và lưu truyền trong một vài làng xóm. Đại loại, những kinh nghiệm –những kỹ thuật dân gian đó là:
Không bao giờ để rọng (ruộng) mất nước cốt.
Mưa tháng ba thì ra mọi sự -mưa tháng tư thì hư mọi chuyện.
- Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt ló hay cày lặp tốt ló (lúa.
- Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt ló (lúa)
Không chỉ cây lúa, mà cây nào cũng vậy, phải chú ý đến việc chọn giống, giữ giống. Tra (già) giống thì mau mộng.
Thời gian hái trái để giống cũng phải đúng: Cau thanh minh, chè sương giáng. Không chỉ lúa, mà khoai lang, bù rợ (bí ngô) - cà pháo, thuốc lào - cho ghẹo làm sao - cũng giữ lấy giống.
Phân bón chẳng những phải đầy đủ vì ló (lúa) có phân như thân có của, mà còn phải bón đúng loại phân: Ló (lúa) phân hoai, khoai phân tươi.
Thời vụ cũng là khâu quan trọng đối với các loại cây trồng.
- (Lúa) gieo trước sương giáng mười ngày
Cấy sau đông chí mười ngày là vưa.
- Chiêm cập cợi, mùa đợi nhau.
- Tháng giếng đúc từ, tháng tư đúc vạc
- Chó lé lại (lẽ lưỡi) vại vưng (vãi vừng).
- Tháng giếng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu (chuối)…
Cấy lúa phải đúng kỹ thuật. Nhặt hàng sông đông hàng con, hay Nhặt hàng sông, lưa thưa hàng bụi thì chồng mới yêu, tùy từng vùng…
Chăm sóc đồng ruộng cũng vô cùng quan trọng:
- Khoai năng mó, ló (lúa) năng thăm.
- Gái được hơi trai, khoai được hơi cào cuốc.
Các loại cây khác cũng phải biết chăm sóc:
- Mít chạm càng, chanh chạm rễ
- Tháng tám cuốc xa tháng ba cuốc gần v.v…
Nông dân có cả một kho kinh nghiệm về trồng trọt, và cả về chăn nuôi. Nuôi trâu, bò cũng phải chọn giống tốt. Trâu phải là loại mồm lá đài tai lá mít, khít tam sơn; Tru (trâu) đực da giấy; tru cấy (trâu cái) da hổ, là giống ăn chóng no, cày khỏe đẻ tốt. Còn loại trâu Trán bánh chưng, lưng vỏ đỗ (hay lưng tôm càng) và tam tinh xoáy ốc, trập tóc vênh sừng là những con ăn thì hay, cày nằm vạ, ham húc nhau, phản chủ.
Bò phải loại Bậm đuôi, xuôi lè, gie sừng; Tru (trâu) đuôi rò (rùa), bò đuôi ngựa. Tốt nhất là những con bò có xoáy hoặc có vệt lông khác màu ở trán: Ló nách thì bán, ló trán thì cày, bạc mày thì thịt.
Lợn, gà, mèo, chó… cũng có “tướng”, “tốt” xấu. Ví như: Lợn thì chấm trán lọ đuôi không nuôi cũng nậy (lớn)…
Bất kể nghề thủ công nào cũng có những kinh nghiệm, được đúc rút lâu đời, trở thành tri thức phổ thông. Ví như nghề dệt thì: Lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng; Nghề may vá thì: Con nít (trẻ em) may ra, mụ tra (bà già) may vào; Khéo vá vai, tài vá nách… Nghề thợ mộc, thợ tre thì biết Tre ngâm khô, gỗ ngâm tươi; Chẻ tre nứa thì: Sơn lâm chẻ ngược, vườn tược chẻ xuôi; Đẽo gỗ thì: Đời cha cho chí đời con, đẽo vuông rồi lại đẽo tròn mới nên; Làm nhà thì bất kỳ tre, gỗ cũng phải thượng thu hạ thách mới vững chãi. Thợ mộc, thợ xây đều thạo: Mộc gia nề giảm (đồ mộc thì cắt gỗ cho già ra, xây thì đắp vữa non lại, đến khi sửa là vừa. Thợ rừng chọn dùng loại gỗ tốt làm choẻn, cán rìu. Thủ tru lụy, choẻn bộng vang, cơm ngày ba bữa mà choang gỗ rừng. Còn nghề đan lát thì biết: Dần giang, tràng ná (nứa), rá trảy; Ná (nứa) tháng ba hơn tre già tháng tám. Đan mẹt thì: Cất năm, đè một, cứ lốt mà theo; Đan nia nống thì: Cất tứ, cất nhị, đè tam v.v…
Ngư dân có kinh nghiệm đánh bắt cá: Tôm choạng vạng, cá rạng đông; chập choạng rạng trời con cá nục chịu rạo, tốt trời thì ra câu; Trời sương mù nhiều thu nhiều nục…
*
* *
Trước khi có thầy thuốc chuyên nghiệp, con người đã biết tự chữa bệnh cho mình. Ngày nay, những kinh nghiệm, những tri thức y dược dân gian vẫn có giá trị trong phòng bệnh, chữa bệnh.
Kinh nghiệm phòng bệnh:
- Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm
- Ăn no thì chớ chạy dài, đói lòng thì chớ tắm lâu.
- Thức khuya dậy sớm cho quen
Ăn no ngủ kỹ mà hèn sức đi…
Kiêng ăn Tru (trâu) toi gỏi sứa; thịt tru (trâu) bạc, nác (nước) khe Gieo; Nhất thị, nhì da (quả dâu da) thứ ba là ổi… bởi: Lỗ mạnh (miệng) góp nhóp, lỗ khu (đít) tản tài….
Kinh nghiệm chữa một số bệnh thông thường:
- Đau bụng van cha (bố) uống cẩm địa là cũng khỏi
- Hai tay ôm lấy ngang lưng,
Tui đau bụng lắm, lấy gừng cho tui (tôi).
- Bốn mùa ho hắng mói (muối) trắng với chanh,
Khan cổ thất thanh, rễ chanh trắc (sắc) uống.
- Hy thiêm ích mẫu đứng đó mần chi,
Để cho con gấy (gái) nữ nhi hao mòn.
- Trông nhà có bụi trạch lan (mười tưới),
Bắt điều kinh nguyệt phải bàn làm chi…
Có hàng trăm loại cây cỏ, chữa nhiều thứ bệnh mà nhân dân truyền cho nhau từ đời này sang đời khác. Nồi thuốc xông (thuốc trúng) dùng khi cảm mạo là một thang thuốc điển hình.
Xưa ở Can Lộc có một số thầy thuốc chyên khoa nổi tiếng:
- Thuốc mụt Thượng Da, thuốc trài (sài) chợ Giấy.
Ở Ích Hậu có thầy thuốc chuyên chữa bệnh chó dại cắn, kể cả khi bệnh đã phát, chủ yếu bằng các vị chu sa, thần sa và dầu vừng; lại có thầy chuyên chữa bệnh bạch đái, băng huyết chế bằng cây bạch đồng nữ (vậy trắng). Ngày nay người ta còn nhắc đến cố Quyển ở Ốc Nhiêu có tài chữa mụt; cố Sửu ở Nam Huân giỏi chữa thấp khớp; cố Tín Hoạt ở San Định giỏi chữa bệnh tâm thần; cố Cựu Thư (sau truyền cho con là ông Nghị) ở Thường Nga nổi tiếng về chữa sái, gãy xương; và cố Kiều San ở Trùng Hanh thì chữa giòi ở vết thương trâu bò bằng “thuật” rất hiệu nghiệm…
Ở Can Lộc lại có làng Trung Ca chuyên làm thuốc cao đan hoàn tán đi bán khắp các chợ, các làng.
*
* *
Ngày xưa dân gian không được đến trường, nhất là phụ nữ. Nhưng suốt bốn ngàn năm nay ai cũng biết mình là “con Lạc cháu Hồng”, “Con Rồng cháu Tiên”. Họ học sử, dạy sử bằng những câu ca, bài vè, chuyện kể… để có được một kho tri thức lịch sử dân gian khá phong phú mặc dù còn nông cạn và phiến diện.
Từ khi chưa có gia phả, hoặc có mà nhiều người chưa biết đọc, thì con cháu vẫn biết rõ “sử nhà” qua chuyện kể của người đi trước. Người ta tự hào nếu cố nội mình là trai cày, trịch vật được cả làng thán phục; nếu bà mình là con gái đẹp, hát hay, dệt giỏi ai cũng phải khen; càng tự hào hơn nữa nếu tổ tiên, cha ông có người có công giết giặc, hoặc học hành đỗ đạt, hoặc giữ một chức vụ tropng làng, trong nước…
Người ta còn biết chuyện làng, “sử làng” qua những truyện kể, những câu ca, bài vè… Chuyện làng có chuyện về gốc tích làng, về các sự kiện và nhân vật quan trọng trong làng, về Thành hoàng làng…
- Tên làng Thượng Trụ là gọi theo tước hiệu của Thái tể Thượng trụ Hồ (hay Triều) quốc công. Tương truyền ông theo hộ giá vua Lê Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành (1470-1471) qua đây, thấy đoạn sông Nghèn quanh co gấp khúc, thuyền bè khó đi lại, bèn sai đào nắn thẳng. Chỗ đào sông mở thêm được 75 mẫy ruộng, vua ban cho ông làm lộc điền, nên đoạn sông và cánh đồng ấy được gọi là Thượng Trụ…
- Tên làng Tỉnh Thạch lại có nguồn gốc từ giấc mộng của ông Nghè họ Hà. Hồi ấy, có Hà Công Trình nhà nghèo, một đêm đi câu về khuya, nằm lăn ra ngủ trên phiến đá đầu làng. Ông mộng thấy người đến bảo: “Chàng trẻ tuổi kia sao không chịu học hành, để phí cái tài lỗi lạc đi!”. Tỉnh dậy, ông chuyên cần học tập và thi đỗ ông Nghè, nên gọi phiến đá đầu làng là “Tỉnh Thạch” (phiến đá làm cho mình tỉnh ngộ). Do đó làng ông cũng mang tên ấy.
Từ đó họ Hà ngày càng thịnh đạt. Đến đời Giám sinh Hà Công Hội thì bị nạn lớn. Nhân làng mở hội, ông Hà đương cai, người nhà mổ bò, mổ lợn rồi dùng nước luộc (nước xuýt) nấu cháo ăn bữa đêm. Nào ngờ một gói thạch tín dùng làm bã chuột gác trên giàn bếp rơi vào nồi cháo không ai hay. Người ăn cháu hầu hết đều ngộ độc chết. Cả nhà, cả họ hoảng loạn, đang đêm chạy trốn mỗi người một ngả. Dòng họ Hà từ đó tan tán khắp nơi, về sau yên ổn mới tìm lại nhau…
- Làng Tràng Lưu xưa là ba đơn vị cư dân nhỉ: Kẻ Đò. Kẻ Vạc, Kẻ Trằng, nằm bến con sông nhỏ Phúc Giang. Đời vua Lê Thánh Tôn ông Uyên Hậu – thủy tổ dòng họ Nguyễn Huy –người Kẻ Trằng, sau khi thi đỗ Ngũ Kinh bác sĩ, làm quan về, đã vận động dân ba làng dời dãy lên đồi Phượng Lĩnh, lập lên thành làng Tràng Lưu.
“…Làng Quan đối với làng Đò,
Dựa vào làng Trại sau vô làng Tràng.
Vẫn vui cảnh Phúc Giang ngày trước,
Ngọn triều dâng nước biếc bóng mây,
Chân đồi Phượng lĩnh từ đây,
Tràng Lưu làng mới sum vầy hôm mai…”.
- Câu ca: Dù trong cũng chỉ nước đồng.
Dù đục cũng nước mũi Rồng chảy ra.
Là của dân làng Tả Hạ tự hào làng mình là quê hương của hai vị anh hùng Đặng Tất, Đặng Dung.
- Lại chuyện làng Hoàng Đạo bị xóa tên vì là quê hương của Tiến sĩ Phan Đình Tá, Thượng thư nhà Lê theo giúp nhà Mạc;
- Chuyện làng Kim Hổ bị “làm cỏ” vì chống lệnh bắt lính, bắt phu;
- Chuyện làng Phù Lưu phiêu bạt 17 năm vì chính sách hà khắc của nhà Nguyễn…
- Bài Vè quan Mai kể chuyện Tiến sĩ Mai Thế Quý, vè Quan Thị hồi gia, kể chuyện cử nhân Nguyễn Duy Nga ở Kim Chùy làm quan về hưu, đã chủ trương bắc cầu Hai Huyện, ghép đá đường làng, lập quỹ nghĩa thương, khai hoang đồng Chợ, vè Bảo Đại ra khánh thành cầu Trù v.v… rồi chuyện Đồng Vụ ở Thượng nguyên, chuyện Đường Quan Thám ở Lai Thạch, chuyện Ông Đô Lối ở Tiền Lối v.v.. đều là chuyện làng ,”Sử làng”.
Những truyền thuyết, cổ tích, những bài ca, bài vè… nhắc đến những sự kiện lịch sử lớn, đều là những bài học lịch sử đất nước.
-Truyền thuyết Cố đô Việt Thường phản ánh một thời tiền sử của dân tộc.
- Câu ca: Từ cơn Vạng đến Bằng Vai - Cụp cờ còn đó nhớ ai cắm cờ, nói về đỉnh Tháp Cờ trên núi Hồng Lĩnh, nhắc lại Chúa Hai, con trai của Mai Hắc đế tổ chức căn cứ chống quân nhà Đường ở đây…
- Còn truyện cổ tích Đá vọng phu, lại nhắc đến một chi tiết về lịch sử địa lý thời cổ, khi Ngàn Hống còn là một hòn đảo, và vùng Thiên Lộc - Can Lộc còn là vùng biển…
- Những truyền thuyết và cổ tích lịch sử (Sự tích cố đô Việt Thường, Cao Biền yểm long mạch. Chuyện bà Vạn, chuyện Cố Bu); những giai thoại về các nhân vật lịch sử (Phan Đình Tá, Mai Đức Bá, Nguyễn Văn Giai, Vũ Diệm, Phan Kính, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Thiếp…); những chuyển kể về các phong trào, các nhân vật yêu nước và cách mạng (chuyện Cử Cận, Chiêu Quán, Chuyện Chanh – Trạch, Trang – Hét, Ôn – Lan, chuyện Nho Túy (Nguyễn Hàng Chi), cố Quyền Vinh (Mai Đình Hòe), chuyện Võ Quê, chị Dung, Học Mai, Lý Cơ, Phan Gần… đều là những bài học lịch sử được truyền bá rộng rãi trong nhân dân.
Không chỉ những chuyện của địa phương có quan hệ đến lịch sử đất nước, mà những chuyển kể, bài ca, bài vè từ nơi khác truyền vào địa phương cũng giúp cho người dân biết thêm về lịch sử đất nước:
“Lần xem trong cõi Á Đông,
So anh hùng nữ kiệt nỏ (chẳng) ai đồng (bằng) nước ta.
Thần Nông ấy là nhà,
Hồng Bàng xưa là họ.
Đời vua Hùng thuở nọ,
Khi giặc giã ngang tàng,
Vừa có ông Đổng Vương,
Lĩnh ngựa sắt gươm vàng
Sang Võ Ninh dẹp giặc,
Sang Bắc thành dẹp giặc.
Gẫm như nường Trưng Trắc
Phận son phấn má hồng,
Quê quán ở châu Phong,
Chị em vũng một lòng,
Quyết trả nợ non sông;
Ra đuổi người Tô Định…
Và: … Vận Trần triều vừa tới,
Lại có giặc Nguyên sang,
Thủy bộ kéo từng đoàn,
Kẻ hàng vạn hàng ngàn,
Tưởng ai đương mô được,
Ai lại giành mô được.
Vua ta ngồi nghĩ chước.
Nghĩ những chước tiến công.
Quân dân cũng một lòng.
Ông Quốc Tuấn đổng nhung.
Ra cướp dáo giữa dòng
Máu đỏ chảy đầy sông,
Đánh Ô-Nhi, Nhi chạy,
Đánh rợ Hồ, Hồ chạy…
Đến đầu thế kỷ XX, người ta còn biết đến cả huyện “năm châu”;
“… Kể chuyện năm châu,
Á, Úc, với Phi, Âu,
Bên Tây cầu châu Mỹ….
Và chuyện Xô Nga nữa:
“… Nay xem qua bốn biển,
Kìa cách mệnh Xô Nga,
Đánh tan lũ quốc gia
Lập nên nền xã hội…
… Có chính phủ công nông
Lên cầm quyền chính trị…
… có trường dạy học trò,
Có nhà nuôi con trẻ…
Tóm lại, những tri thứ về sử dân gian được tạo ra và truyền bá bằng phương tiện và cách thức như vậy.
*
* *
Cùng với những tri thức thiên văn, địa lý, kỹ thuật, y dược, lịch sử… dân gian còn có cả kho kinh nghiệm ứng xử đối với tự nhiên và trong xã hội, trước hết là những điều thường thức về nuôi dạy con cái, gia chính, giao tiếp… những kinh nghiệm đi đường, buôn bán v.v…
Hơn nữa dân gian còn có cả triết lý tín ngưỡng của mình.
* Về triết lý dân gian thì người Thiên Lộc – Can Lộc, người Hà Tĩnh, cũng như người Việt Nam nói chung đều có những quan niệm giống nhau, khác chăng là tùy lúc, tùy nơi có đâm nhạt đôi chút. Đó là những quan niệm về sống, chết, về cuộc đời, về tiêu chuẩn đạo đức… có thể tóm tắt như sau”:
- Sống trên đời là tạm bợ. Sống gửi thác về, do đó chết cũng gọi là về, về quê… Trăm năm trên dương thế chỉ là trong nháy mắt, cõi âm là vĩnh hằng. Nhưng chính cuộc sống mới là đáng quý. Một ngày dương gian bằng vạn ngày Âm phủ, do đó con người là quý nhất: Người sống hơn đống của; Rườm (hay rậm) ngài (người) hơn rườm của, vì Con ngài (người) ta là hoa đất; Ngài (người) mần (làm) ra của, của không mầm (làm) ra ngài (người).
- Mỗi người có một tính nết riêng: Sống mỗi người một nết; và mỗi người có một số phận riêng. Ai đành phận nấy. Tính nết có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh và sự giáo dục, còn số phận là định mệnh, không thể thay đổi, phải sao chịu vậy. Trời cho thì được, Chạy trời không khỏi nắng; Trăm đành tránh nỏ (chẳng) khỏi số. Giàu nghèo là do số: Số giàu tay trắng cùng giàu, số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo. Sống chết đều tại số nên thầy thuốc Chữa được bệnh chứ không chữa được mệnh.
Mỗi người dù có hơn về của cải, chức vị thì cũng nhất thời. Cá nhân dù giỏi dang cũng không vượt ra ngoài cộng đồng: Quan nhất thời, dân vạn đại; Của như trái bưởi mỗi người ôm một lúc; Cả bè còn hơn một cây; Dại bầy hơn khôn độc. Người ta sợ nhất là Sẩy đàn tan nghé.
Con người không chỉ lo cơm áo, lo đời sống vật chất mà quan yếu nhất là sống sao cho xứng đáng; Sống nhục không bằng thác vinh; Người ta hữu tử hữu sinh, sống cho xứng phận, chết dành tiếng thơm; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Nhưng “để tiếng” không phải là chuông hư danh, mà sống sao cho trọn đạo người, sống có danh dự: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
Tiêu chuẩn của hạnh phúc không chỉ duy nhất là tiền của thậm chí nhiều lúc của cải lại làm hại, làm hỏng con người. Nhưng sống ở đời không nên để thua bầu kém bạn của cải chưa đủ mà còn có danh vọng (thực): Không bằng cũng đứng ngang vai, thua tiền kém bạc, chứ sắc tài không thua; Một mặt người bằng mười mặt rọng (ruộng), Một người đi lọng bằng bảy tám người đi ô.
Sống phải biết ứng xử đúng mức, vì ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Sống phải có trách nhiệm với gia đình, họ hàng, làng xóm, không tách mình ra khỏi cộng đồng: Làng xiêu thì xiêu với làng; Việc nước trước việc nhà. Các nhà nho nói: Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách thì dân gian nói: Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh.
Những kinh nghiệm sống có thể coi là triết lý tín ngưỡng chung trong dân gian, gần như chi phối hầu hết mọi người Việt Nam, người Nghệ Tĩnh. Ngoài tục ngữ còn có các bài vè, truyện ngụ ngôn phản ánh một số hình thức liên hệ trong phán đoán, trong tư duy, với một nội dung khá sâu sắc, có những yếu tố biện chứng. Nhiều câu ca cũng như vậy:
- Làm người khi nhục khi vinh,
Khi đội thúng cám, khi rinh (bê) quan tiền.
- Biết là ai khó ai giàu,
Biết ăn trăm tuổi bạc đầu hơn ai!
- Đừng chộ (thấy) người rách mà cười,
Biết là giàu mẹ đã đến đời con chưa?
(Tục ngữ: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời).
Người ta tin rằng sống lương thiện thì sẽ được đền đáp, kẻ ác độc thì sẽ bị trừng phạt.
- Ở hiền thì lại gặp lành
Ở ác gặp ác, tan tành tả tơi (hay: Ông xanh định rồi)
- Tru (trâu) ác thi tru dạc sừng
Bò ác thì bò gãy lưng, vào nồi (hay: bò về)…
Quan niệm về sự quả báo rất đặm và phổ biến: Trời có mắt, ăn ở ra sao đã có trời trả nợ; Đời cha ăn mặn, đời con khát nước; Cơn (cây) khô không lộc, người độc không con; Cao bóng dù, su (sâu) địa ngục v.v…
Do đó, dù trong hoàn cảnh nào cũng cứ ăn ở cho tử tế, không tham lam, không luồn lọt, giáo lá để cầu sung sướng.
- Cơn (cây) cao có trấy (trái) chín muồi.
Sèm (thèm) thì chịu vậy của người không tham.
Dù hoàn cảnh thay đổi cũng cứ sống cho trong sạch, có nghĩa, có tình: Đói cho sạch, rách cho thơm; Dù là chức trọng quyền cao, cũng phải xuống võng mà chào bạn quen.
Và dù ở hoàn cảnh nào cũng sống lạc quan tin tưởng:
- Đói lòng mặt vẫn còn ươi…
- Đắng cay thì mặc đắng cay,
Bây giờ cơ khổ có ngày vẻ vang.
- Còn trời, còn nước, còn non,
Còn vầng trăng cộ (cũ) phấn sơn chưa lòa (nhòa) v.v…
*
* *
2. Nghệ thuật dân gian
Nghệ thuật dân gian (bao gồm thơ ca – nhạc dân gian, truyện kể dân gian, hội họa – điêu khắc, kiến trúc dân gian, múa, sân khấu dân gian v.v…). Ở Thiên Lộc - Can Lộc đến nay tuy đã mất mát nhiều vẫn còn khá phong phú và đậm đà bản sắc địa phương. Vốn văn hóa ấy được sáng tạo tại chỗ, hoặc được du nhập và cải biên, bổ sung, trở thành nguồn của quý giá, làm cơ sở để “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” hôm nay.
Thơ ca dân gian dùng nhiều thể văn: ba, bốn chữ, phổ biến nhất là thể năm chữ, và thể sáu chữ - tám chữ, có khi cũng dùng thể thơ bảy chữ và thể thơ tự do.
Đặc điểm của thơ ca dân gian là gắn với âm nhạc. Thơ ca làm ra không phải để chép vào vở, in sách báo, mà là để trình diễn trước quần chúng, nghĩa là để kể, để hò, hát. Nói cách khác, thơ ca dân gian là lời các bài vè, lời hát các loại dân ca.
Trước tiên là đồng dao, bài hát của trẻ con, thường được sử dụng trong các trò chơi của trẻ.
Đồng dao có khi dùng thể thơ hai, ba chữ, hoặc bốn năm chữ mà trẻ con Can Lộc và nhiều nơi khác cũng hát:
- Nhảy lò cò,
Hò ra rá,
Rinh hòn đá,
Vá hòn than…
- Khoai từ, khoai vạc,
Bỏ trác gánh về,
Chồng thì ngồi lê,
Bắc nồi lên nấu v.v…
Có khi dùng thể sáu – tám chữ chuyển sang thể tự do như bày:
Đồng roi ơi hỡi đồng roi
Ăn no tắm mát theo đòi người ta
Tổ tiên đang ở trên xa,
Nghe lời tôi thỉnh đi ra mà về.
Tập tập đi buôn đi bán,
Say quân hàng vạn đi bán lá da (đa)
Một trăm con ma đi ám ông đồng…
*
* *
- Cũng như ở các địa phương khác, ca dao ở Can Lộc rất phong phú và có nhiều câu đẹp, bài hay. Ca dao vẫn có thể là lời hát ví, hát ru, gát giặm…
- Hồng Sơn cao ngất mấy trùng,
Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu.
Đó là một câu trong bài “Thác lời người con trai phường nón Tiên Điền…” Của Nguyễn Du được trích ra, dùng trong hát ví, hát ru, trở thành một câu ca dao độc lập.
- Chàng đi mô đã mấy đêm trường,
Trò Thúy Kiều không hát, hội chùa Hương nỏ về.
- Dặn lòng ai đó đừng xiêu,
Mưa Khe Giao, có bạn, nắng mũi Diều có nhau…
Câu ca thì đẹp, nhưng phía sau (hay bên trong) lại là cuộc sống vất vả của người dân quê, cũng như câu dưới đây:
Đầu rồng sánh với đuôi ly,
Trai thanh tân Đông Phượng sánh với gái nữ nhi Mỹ Tường
Trai Đông Thượng thời thường bơi lặn
Gái Mỹ Tường đều đặn múa mênh.
Câu trước nói về người thượng Can đi củi, đi cỏ rú. Câu sau nói cảnh dân hạ Can, trai đi bắt cám gái ở nhà kéo sợi trong lúc nông nhàn.
Bài hát dưới đây của Can Giạ (Hồ Giạ, ở Phù Lưu Thượng) cũng vậy:
Anh thương em vô giá vô vàn,
Đòi cao tiền cưới ánh gán động Hàn vô cho.
Động Hàn em nói chưa to,
Cho phần anh để đó,
Gạt phần dì để đó,
Khe su, động Mọ,
Dốc Lốc, khe Lỳ,
Cầm tiền cướic cho dì,
Thêm cho dì hoa nữ,
Cho em một vạt bắc mạ,
Trên động Bằng, khe Yên,
Cho em một vạt ló chiêm
Ngoài động Kèn Cương Gián.
Cho em một vạt ló sớm,
Dưới trọt Nai Kim Đôi,
Mượn con tại số, mượn của tại trời,
Mượn chồng thiệt lắm em ơi.
*
* *
Vè là một thể văn vần kể chuyện, có đầu có đuôi “hoặc kể về sự việc, hành vi (lớn thì như một giai đoạn lịch sử, một nhân vật tiếng tăm, nhỏ thì như một vụ đánh nhau, chuyện vợ chồng ghen tuông…); hoặc kể về phong cảnh một địa phương, về hành trình một đoạn đường… (thường gọi vè phong thổ, vè nhật trình…); hoặc nữa, kể chuyện tâm tình để than vãn duyên phận, dỗ dành, tán tỉnh, khuyến khích, ngợi ca (như các bài: Mẹ dòng lệch gối nghiêng chan; Mẹ dông than thở cùng con; Phu tử tình thâm…).
Vè Nghệ Tĩnh cũng thường sử dụng các thể văn lục bát hoặc câu dài, câu ngắn… như các vùng trong nước. Nhưng đặc biệt ở đây phần lớn các bài vè đều dùng thể văn hát giặm nên thường gọi là “vè giặm”.
Xưa kia, hầu như ở xóm làng nào cũng có một số người giỏi làm vè. Hễ xẩy ra chuyện gì khác lạ, họ thường có ngay một tác phẩm mới, “trao” cho các chú mục đồng “xuất bản” phục vụ kịp thời. Nhiều bài vè như vậy được truyền bá rộng rãi không chỉ trong làng mà cả trong một vùng, một xứ, và được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Đến nay, ở Can Lộc người ta còn nhớ đến nhiều tên tuổi Nghệ nhân dân gian, và thuộc nhiều tác phẩm của họ. ÔngNgoo Hoát ở Trảo Nha; cố Yêng ở Kỳ Trúc, cố Hải Vấn, cố Trọng ở Yên Huy; ông Võ Khoa, ông Võ Đình Lời ở Đỉnh Lự; cố Nuôi Đẩu ở Nguyệt Ao; cố Thiện ở Quần Ngọc; ông Phạm Cạy ở Kỳ Trúc, Can Giạ ở Phù Lưu Thượng; ông Nguyễn Văn Nghĩa ở Mỹ Tường và nhiều người khác…
Cố Yên (Kỳ Trúc) là tác giả bài vè Nhàn ngày nào ngày lại thêm xuân, có đoạn nói về cảnh xuân trong làng xã xưa, có phần lý tưởng hóa:
…Lập xuân, vũ thủy,
Chính ngoại lập xuân tiền,
Kẻ nam nữ thiếu niên,
Đang sắm sửa áo quần,
Chơi du xuân hành lạc.
Nơi rượu chè bài bạc.
Nơi đáo, sớ, bài phu,
Nơi cờ thẻ vân du,
Nơi loan dờn phượng múa.
Trăm giống hoa đua nở,
Con ong bướm đầy đoàn
Hoa nhụy nở vườn xoan,
Con ong chiều bướm chuộng,
Ong chiều, bướm chuộng,
Lòng mến mệt muôn phầnm
Sang kinh trập, xuân phânm
Chơi màu hoa cho tỏ.
Thanh minh, cốc vũ,
Đoàn chim én đưa thoi,
Ba tháng xuân đã rồim
Chén trà thung chưa nguôi,
Ly rượu đào chưa cạn…
Can Giạ (Hồ Giạ) ở Phù Lưu Thượng sống vào cuối thế kỷ trước và đầu thế kỷ này, là một cố nông, chăn bò bầy thuê cả xóm, suốt đời trên người chỉ có manh khố rách. Nhưng ai cũng khen ngợi và vị nể vì Can có tài làm vè. Ngày nay trên một cụp rú trong Ngàn Hống còn có một tảng đá lớn bằng phẳng được goji là “đá Can Giạ” tương truyền là nơi Can thường ngồi đặt vè. Vè của Can Giạ rất độc đáo. Mấy câu mở đầu Tài lao động của ông Hoạt Huề là một ví dụ:
- Đói thời bán củi, bán than,
Ông Hoạt trửa (giữa) xã chẳng can cớ gì.
Đâm trời, trời sủng (thủng) quách đi,.
Nói đất đất chuyển, vị chi có tài..
Nguyễn Văn Nghĩa (1883-1971) gốc Mỹ Tường, ngụ cư Đông Thượng, cũng là một cố nông mù chữ mà tính hào hiệp, được dân làng mến phục. Ông giỏi nấu bếp, ai có việc gì đều mời đi làm cổ, lại giỏi làm vè. Dưới đây là bài kể chuyện vua Bảo Đại ra khánh thành cầu Trù năm 1943, với lời văn mộc mạc mà châm biếm sâu sắc:
Mồng ba rồi lại tháng ba (năm Quý Mùi),
Vua ra hành hạt dân ta “thái bình”
Ngũ lâu thì buộc đùng đình,
Hai bên hương án độc bình bày trên.
Đắp Tả hạ, đắp đò Ên
Đắp từ Vụng Lội cho lên cầu Trù.
Dân ta vừa dại vừa ngu,
Để cho nước chảy nhọn khu (đít) chống đò.
Thương cho những kẻ (đi) rú, (đi) mò,
Đã mất tiền đò lại phải kêu van.
Trước kia cụ Cửu, cụ Hàn,
Hai cụ cũng cúng vua quan không về.
Bây giờ hàng tổng đắp để,
Vua quan lại về, tốn hại đến dân.
Quan trên ích lợi nhiều phần,
Để cho hào lý khổ thân thế này!
Một đoàn áo thụng đến đây,
Tập chào, tập vái, đợi ngày vua ra.
Ô-tô thì độ (đậu) ngã ba
Dân sự thì đứng đàng xa mà nhìn.
Quan bắt gánh đá rú Bin,
Rải một mạch liền Tả Hạ về ta.
Roi song nó đập tuốt da,
Nó về tận nhà, nó bắt liên miên.
Bờ đang (đường) bắt cặm cờ liềnm
Quan Hàn thì được ngân tiền vua ban.
Không chỉ những nông dân mù chữ, ít chữ, mà một số nhà nho như Trần Hiếu Liêm, Lê Bá Tuân… và cả những người tân học như Bạch Hào, Thanh Minh… cũng làm vè (xem phần Văn chương – Nghệ Thuật – khoa học, tác giả và tác phẩm.
*
* *
Như đã nói trên, thơ ca dân gian là lời hát của các làn điệu dân ca (ca từ). Dân cư Nghệ Tĩnh khá phong phú, bao gồm các điệu hò, hát ru, đặc biệt là hai loại hình mang bản sắc địa phương đậm đà nhất là hát ví, hát giặm.Ngoài ra còn có hát sắc bùa, hát xẩm, hát nhà trò (ca trù), là những bộ môn nghệ thuật chuyên nghiệp, nhát là ca trù lại có tính chất bác học, nhưng ít nhiều đã được dân gian hóa, địa phương hóa.
Hát ví là lối hát hoa tình, giao duyên nam nữ rất phổ biến ở Nghệ Tĩnh, Hà Tĩnh, vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Theo một số sách và bài viết thì từ thế kỷ XVII hát ví đã thịnh hành.
Lời hát ví là câu văn lục bát hay lục bát biến thể, dễ bay bổng, ngân vang, nhất là khi hát trên sông. Tùy theo môi trường diễn xướng mà nhạc điệu hát ví có những thay đổi trên cơ sở một điệu cơ bản, nên các nhà nghiên cứu âm nhạc thường gọi tên khác nhau: Ví đò đưa, ví phường cấy, ví phường nón, phường buôn (bộ), phường vải, ví trèo non (phường củi, phường cỏ) v.v…
Có thể nghĩ rằng hát ví là điệu hát của vùng sông nước, sinh ra từ vùng sông nước Lam - La: Hát đò đưa. Giọng hát đò đưa trong trẻo, ngân vang, nghe man mác, xao xuyến lòng người, nhất là hát trong đêm khuya… Lời hát trữ tình, chải chuốt mà tự nhiên, đặc biệt không có từ Hán - Việt, ngoài mấy tiếng “phượng, loan)…
- Bóng trăng em tưởng bóng đèn,
Bóng cơn (cây) em tưởng bóng thuyền anh xuôi.
- Nước lên xấp xỉ cầu dày,
Anh thương em chưa trọn một ngày ghe lùi.
Nước chảy cho bè anh trôi
Ai bắt bè anh lại, kết nên đôi vợ chồng..
“… Người chèo thuyền, người chở bè buông tiếng hát ra giữa khoảng mêng mông trời nước, chỉ có mình hát cho mình thưởng thức, mình hát để trải tình cảm của mình trước thiên nhiên, và thiên nhiên như người bạn lòng, đáp lại tình cảm của nghệ sĩ dân gian bằng tiếng dội của núi non, sông nước. Khi nào đó, gặp một thuyền bạn ngang qua, thì từ con thuyền ấy sẽ có lời đối lại, chỉ đôi ba câu hát, đôi ba câu trao đổi, đủ để tỏ mối đồng cảm, rồi hai thuyền lại xa nhau. Rồi có những con thuyền cùng xuôi, cố ý chèo gần nhau, hoặc cặp lại bên nhau mà hát… Hoặc nữa, có người từ trên bờ “hát vọi” ra, đáp lại tiếng hát giữa dòng sông, từ đó có ví đối đáp…” (Thái Kim Đỉnh – Đôi điều về dân ca Nghệ Tĩnh – 1981).
Ví phường buôn bộ, phường củi, phường cỏ, phường cấy… đều là ví đối đáp nam nữ, khi đi đường, khi lao động ngoài trời, khoáng đãng, chất trữ tình rất đậm.
- Đưa anh ra tận cầu Dằng,
Tình so Ngàn Hống, ngãi bằng rào Rum.
- Một ngày hai bận trèo non
Lấy chi mà đẹp mà giòn hỡi anh!
- Một ngày hai bận cơm đèn,
Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng?
Vì phường nón, phường vàng, phường vải… đều là ví giao duyên nam nữ khi làm việc trong nhà, đặc biệt ví phường vải được tổ chức quy củ, chặt chẽ nhất. Khi Phường hát con trai đến thì phải đứng ngoài ngõ nhà có con gái tập trung để kéo sợi, dệt vải, hát “gợi”, “đánh tiếng” rằng mình đã đến:
- Chốn này vui vẽ tưng bừng,
Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi
Một lúc sau, phe nữ mới hát đáp lại:
- Dừng xa khoan kéo ơ phường,
Hình như có khách viễn phương tới nhà…
Thế là hai phe bắt đầu “hát dạo”, đến lúc đã say thì “hát chào – hát mừng”, rồi “hát hỏi”. Đây mới là chặng đầu. Chặng thứ hai, “hát đố” mới là chặng quyết liệt nhất, kéo dài nhất, có khi nhiều đêm chưa dứt. Đây là cuộc “sát hạch” khắt khe kiến thức của nhau, nhưng qua được chặng này thì hai bên trở thành thân thiết. Lúc đó bên nữ mới “hát mới” mở đầu chặng thứ ba. Sau đó là “hát xe kết”, tỏ tình và cuối cùng là “hát tiễn”.
Nữ:
Anh về nước mắt dòng dòng
Thấu thiên thấu địa, thấu lòng em chưa?
Nam:
Ra về chín nhớ mười thương,
Bước chân lên ngựa cầm cương dùng dằng…
Khong như hát giặm, vè các loại hát ví lao động khác, ví phường vải có các nhà nho, kể cả các nhà khoa bảng tham gia. Không chỉ bên trai, mà bên gái cũng mời cho được một thầy nho, ông tú, giỏi sáng tác, có kinh nghiệm để “gà” chuyện. Những người này phải giấu không cho đối phương biết mình là ai, thương trùm khăn, áo trên đầu nên gọi là “ông trùm đầu”. Do đó, lời hát ví phường vải, nhất là phần “hát đố - hát đối”, ít chất trữ tình mà giàu chất trí tuệ, và dùng nhiều chữ nghĩa, điển tích…
Thiên Lộc – Can Lộc xưa là một trong những vùng hát ví phổ biển nhất ở xứ Nghệ. Ở đây từng có câu chuyện Thần hát ví như sau:
“Làng Phổ Minh (nay là Thiên Lộc)(1) có cô gái đẹp, hát hay nổi tiếng trong Nghèn, ngoài Chế. Người ta đồn rằng giữa ngày đông tháng giá bà con đi cấu ruộng sây, rét run cầm cập, thế rồi tiếng ví của cô cất lên, bỗng hừng nắng ấm đầu xuân; lúc trèo truông gánh cửi giữa trưa hè, mồ hôi đẫm áo, tiếng ví của cô cất lên, thành làn gió nồm mát rượu; đêm khuya, tiếng ví của cô lay động trăng sao; buổi chợ đang đông nghe tiếng ví của cô cũng im phăng phắc; tiếng ví khiến đàn cò trăng dạo trên đồng làng bay đi không dứt, tiếng ví làm cho con nai uốn nước dưới khe cũng ngơ ngác vểnh tai; tiếng hát làm cho đám con trai chết mệt chết mê; tiếng hát đưa lại tuổi thanh xuân cho ông già, bà lão.
Nhưng một hôm cô gái cáo Ngàn Hống lấy củi rồi không về nữa. Cả nhà, cả làng đổ xô đi tìm, vẫn bặt vô âm tín. Ai cũng thương xót cho số phận một người tài hoa… Thế rồi, những khi gió mát trăng thanh, trai gái ra đứng đầu làng bồng nghe tiếng ví của cô vẳng trong làn gió; các bà già thường nghe tiếng ví của cô ngân giữa canh khuya; những phườn củi, phường cỏ thì nghe tiếng ví của cô khi đặt gánh nghỉ bên khe núi. Người ta gọi cô là “Thần hát ví”. Rồi mỗi khi nghe tiếng ví của cô, gái trai già trẻ Phổ Minh lại tiếp lời cô, cùng nhau ví hát mãi đến ngày nay (Theo “Núi Hồng 99 ngọn” của TKĐ).
Phổ Minh là một làng ví hát vào loại sớm, và có nhiều người hát giỏi. Nhiều làng ở Bạt Trạc, Ích Hậu, Phù Lưu Thượng, Kiệt Thạch v.v.. cũng là những làng ví hát cổ truyền, và đến nay người ta còn nhắc đến một số nghệ nhân như Phan Phỉ, Trần Sỹ Thành, Cố Nhung v.v…
Riêng ở Tràng Lưu theo một số tài liệu thì cuối đời Lê, đã có hát ví phường vải. Tương truyền, thi hào Nguyễn Du đã từng lên đây, cùng các bạn bầu dự các cuộc hát. Đến nay một số tác phẩm của Nguyễn Du (Văn tế sống hai cô gái Tràng Lưu; Thác lời người con trai phường nón Tiên Điền) và của một người trong họ Nguyễn Huy mà trước đây người ta cho là Nguyễn Huy Quýnh (?) (Thác lời người con gái phường vải Tràng Lưu) còn chứng minh việc ấy. Tràng Lưu có nhiều nghệ nhân hát ví, từ o Uy, o Sạ, nhân vật văn học, đến o Đào, o Liệu (họ Nguyễn Xuân); o Ba (họ Trần)… đầu thế kỷ XX này, và nghệ sĩ ưu tú Trần Đức Duy, em ruột “o Ba”, nay đã ở lớp tuổi ngoại bát tuần… Ngày nay những nghệ nhân Trường Lưu vẫn tiếp tục ví hát và truyền tiếng ví hát đến những thế hệ mai sau.
*
* *
Hát giặm: Một số nơi ở Hà Tĩnh, từ Can Lộc vào Kỳ Anh, trong các cuộc hát đối đáp nam - nữ (hoặc nam - nam), nhiều khi cả hát ví (trừ ví phường vải), cũng xen vào những đoạn hát giặm.
“Giặm” là một thể loại văn học - âm nhạc dân tộc giàu sắc thái địa phương (Nghệ Tĩnh) nhất … từ “giặm” về ngữ nghĩa cho đến bây giờ vẫn mơ hồ. Có người cho rằng nó xuất phát từ tính cách phân đoạn của bản thân hát giặm… có người lại cho nó xuất phát từ tính cách chắp vần và láy lại của một khúc hát trong đối thoại” (Địa chí VHDG Nghệ Tĩnh). Hai cách giải thích này đều chưa thỏa đáng, chưa đủ thuyết phục, nhưng đến nay chưa ái đưa ra một cách giải thích khác.
“Dựa theo một số bài hát giặm còn sót lại, tạm có bằng chứng cho rằng giặm đã tồn tại từ thế kỷ XVIII…, nhưng dựa theo nhạc điệu thì có thể ngờ rằng giặm bắt nguồn từ một loại động tác lao động nào đó xuất hiện từ xa xưa, có liên quan đến một điệu hát nào đó của đồng bào thiểu sổ vốn có giao lưu văn hóa với người Kinh xứ Nghệ xưa…” (Địa chí VHDG Nghệ Tĩnh). Như vậy là nguồn gốc, thời gian ra đời, đến nghĩa chữ giặm vẫn chưa rõ ràng.
Về thể văn, bài (hoặc khổ) giặm cơ bản có năm câu, mỗi câu năm chữ, gieo vần chân: Câu 1 vần trắc, câu 2 và câu 3 vần bằng; câu 4 vần trắc và cấu 5 (câu láy lại, điệp) cùng vần trắc với câu 4:
1. Ai khun (khôn) bằng Từ Hải, (trắc)
2. Cũng mắc dại Thúy Kiều, (bằng)
3. Nghe lời nói mà xiêu, (bằng)
4. Về thu binh cuốn dáo, (trắc)
5. Hạ cột cờ cuốn dáo. (câu láy, trắc)
Cũng có khi mỗi câu chỉ có bốn chữ, hoặc dài đến 6, 7, 7 chữ, và một bài (hay khổ) giặm có thể kéo dài hàng chục câu bằng cách thêm câu vần bằng. Những tay đặt vè giỏi thì không bị gò bó về câu, vần mà biến hóa rất sinh động… Về chợ Hạ tui (tôi) quen cụ Đình - về Lạc Thiên tui quen cậu ấm Ninh - Quen ông Tám Ca Lai Thạch (chuyển vần trắc) - Quen ông Bát Trạch Giang Đình (trở lại vần bằng) - Quen ông Ký Bưởi ngoài Vinh.
Một bài hát giặm tự sự hoặc trữ tình dài hơi thường nhiều khổ, có khi tới mấy chục khổ nối tiếp nhau. Để bài liền mạch vẫn, của câu đầu khổ sau phải hiệp với vần của cấu cuối khổ trước. Loại này thường mở đầu và kết thúcd bằng hai câu 6-8 hoặc chỉ bằng một câu 6.
Có loại bài giặm nhất thiết phải sáng tác ứng khẩu tại chỗ như bài hát đối đáp, đối thoại hay bài trình diễn trước đông người bằng độc xướng hoặc hòa thanh, để chung vui khi chúc mừng, hoặc ca tụng, kể chuyện, hay cổ động một việ mang tính thời sự. Người ta không hát lại bài cũ (vì không hợp với hoàn cảnh mới và có thể cũng không thể nhớ lại). Đó là nguyên tắc của những tay hát giặm cừ khôi. Do vậy, nghệ nhân hát giặm (cầm đầu một phường hát) nhất thiết phải giỏi sáng tác. Lớp tác giả này đều là nông dân, ngư dân, dân buôn bộ, và cũng có các nhà nho tham gia.
Với loại bài giặm dài hơi kể một câu chuyện, hoặc diễn đạt một tâm trạng, thường gọi “vè giặm” hay “giặm vè” thì tác giả phải chuẩn bị chu đáo công phu… Những bài này vẫn chỉ truyền miệng, nhưng một số căn bản được định hình, có giá trị bền vững, như các bài : Ngàn ngày nào, ngày lại thêm xuân (của cố Yêng); Phong thổ Thường Nga, Vè làng Yên Tập, Đắp đập cơn Sanh, đám dận mụ Trùm Cơ, Xuân khứ xuân lai, Người phụ nữ thành Vinh (của Hồng Sơn)… Tác giả những bài này phần lớn vẫn là nông dân nhưng cũng có các nho sĩ và trí thức tân học.
Âm nhạc của hát giặm cũng như “âm nhạc dân ca Nghệ Tĩnh nói chung còn mộc mạc, chưa có kết cấu hoàn chỉnh, dựa vào lời theo các thể thơ, trên cơ sở giấu giọng để biến thành giai điệu” (Hoàng Thọ -Từ dân ca đến kịch hát); “Khoảng cách giữa hát và nói không xa bao nhiêu” (Lê Ngọc Cầu –sách trên).
Hát giặm nghe không mềm mại, du dương, uyển chuyển như hát ví mà đều đều, khi khoan, khi nhặt (có người đã nghĩ rằng hát giặm có thể có mối quan hệ nào đó với phong cách Chăm). Tùy theo môi trường diễn xướng và thói quen cảm thụ của từng vùng, mà về tiết tấu hát giặm có ít nhiều khác biệt, do đó mà các nhà sưu tầm, nghiên cứu âm nhạc thường gọi theo nhiều tên riêng biệt: Giặm nối, giặm kể, giặm ru, giặm cửa quyền (?)… có người lại gọi tên theo môi trường diễn xướng: Giặm đò đưa, giặm trèo non, giặm đường trường, giặm đối đáp,,
Người ta hát giặm khi lao động, trong sinh hoạt thường ngày: có khi mọi người cùng hát đồng thanh để cổ vũ động viên nhau cho quên mệt, như tục hát của phường đi củi ở Ngoại Can Lọc, ven Ngàn Hống; có khi một người độc xướng để bày tỏ niềm riêng với bạn, cũng là với chính mình, như anh con trai phường gặt cất lên khúc hát trước khi chia tay vói bạn gái: Rơm cũng đã rã rồ, - Toóc (rạ) cũng đã rã rồi-… Mự (mợ) rẽ về một nơi – tui (tôi) rẽ về một nơi – Mai đàng sá xa xôi – Tui về không gặp mự…; Có khi hai người bạn gặp nhau cùng hát đối đáp để mua vui, hoặc trao đổi ý kiến, tình cảm; Có khi một nghệ nhan hoặc phường hát đến xa lạ, gặp dịp tết nhất, hội hè, thì ngẫu hứng hát mừng, hát chúc; Lại có khi đêm vắng thuyền xuôi, người chèo thuyền độc diễn bài hát giặm tự sự hoặc trữ tình, thả tâm hồn giữa cõi trời cao, sông rộng; ngoài ra các bà mẹ cũng thường hát ru con, và các nghệ nhân xẩm cũng thường sử dụng các bài giặm để trình diễn. Người ta gọi đó là “giặm ru”, “giặm xẩm”.
Nhưng trong buổi đầu, hát giặm chủ yếu là hát giao duyên, đối đáp nam nữ. Trong bài phú Trung Lễ thất hoa của Lê Trọng Đôn làm năm 1885 có câu: “… Ngoài đàng thì dạo từng đàn, đoàn họp làng, đoàn hát giặm…”. Như vậy, hồi đó, hát giặm đối đáp nam nữ đang thịnh hành.
Cuộc hát thường do trai gái trong làng (hoặc trai gái các làng lân cận đến) hát với nhau. Mỗi “phe” hát thường có 3-5 hoặc 7 người, trong đó nhất thiết phải có người sáng tác giỏi. Người ấy ứng khẩu hát, và những người khác “hát cặp” theo đúng lời, đúng giọng. Nội dung buổi hát là cuộc đối đáp thì tài giữa hai phe nam nữ, nhưng cuỗi cùng bao giờ cũng là cuộc “tỏ tình”. Khác với hát ví, những bài hát giặm đối đáp không chỉ có dăm bảy câu, mà có thể mấy chục câu, cá biệt có nghệ nhân ứng tác, hát hàng trăm cây. Vì vậy, có người cho đây là “tỏ tình bằng văn xuôi”. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, lối hát giặm đối đáp nam nữ chỉ còn thấy ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên.
Hát giặm vè (hay vè giặm) thì cho đến sau cách mạng cũng rất phổ biến ở Nghệ Tĩnh, và ở cả bắc Quảng Bình cũng có.
“Hát giặm, với thể văn ngắn, nôm na mộc mạc, dùng nhiều thổ ngữ, với nhịp hát dồn dập, gấp gáp và giọng hát như dằn xuống chắc nịch, nghe trầm buồn; phải là sản phẩm của một vùng xa nơi đô hội, ít giao lưu, không có thuyền lớn sông dài, mà là nơi đồng chua nước mặn, cuộc sống con người vất vả, nhọc nhằn. Đó là cùng nam Hà Tĩnh” (Thái Kim Đỉnh - Tản mạn về hát giặm - VHNT số 6 H.1996).
Theo sự tìm hiểu tại chỗ thì xưa kia chỉ vùng Hà Hoàng - Bàn Thạch (tức là địa bàn các huyện Can Lộc, Thạch Hà và bắc Cẩm Xuyên bây giờ, có nhiều nơi hát giặm đối đáp. Vùng này cũng tập trung nhiều nghệ nhân hát giặm xuất sắc nhất, đậm đặc hơn cả là vùng quanh thị xã Hà Tĩnh bây giờ.
Riêng ở địa bàn Can Lộc có Ngô Hoát (?-1032) ở Trảo Nha, Ngoéc Em ở Thuần Thiện, Cháu Tạu ở Phổ Minh, Bà Hiệt ở Thanh Lương v.v…
Phổ Minh là làng có nhiều người hát ví và hát giặm giỏi. Người ta kể rằng: Hàng năm, phường cấy Đan Chế thường ra đi cấy và hát với phường Phổ Minh. Hai bên đều ngang tài, ngang sức, nên đều có khi được khi thua. Nhưng đến một năm kia, các tay hát Phổ Minh vượt trội lên, đêm hát nào phường Đan Chế cũng thua. Đan Chế có một tay hát cừ khôi là cố Ngờn (cũng gọi là cố Nguôn), giỏi kể chuyện và hát rất hay nhưng người lại xấu xí, thường chỉ hát ở nhà, không dám đi đâu xa. Phường Dan Chế túng quá cũng phải về viện đến cố Ngờn. Nhưng sợ phường Phổ Mình biết thì chê cười, không thèm hát, nên đặt cố vào một cái bồ, đậy kín, gánh ra… Ban ngày họ giấu cố một nơi, tiếp đãi hậu hĩ, ban đêm lấy võng cáng cố đi hát. Từ đó hai phường hát lại ngang sức, ngang tài, phường Đan Chế nhiều lần giành thắng lợi.
Ở Phổ Minh còn có tục đi củi lượt (xem phần phong tục). Mỗi lần vào Ngàn Hống lấy củi, người ta giao cho một cô gái (gọi là nàng Me) ngồi hát động viên đám con trai làm việc. Còn những người con trai thì phải làm thêm hai gánh củi, một cho “nàng Me” cùng đi và một cho “nàng Me” khác chịu trách nhiệm nấu cơm ở nhà… Lại khi về, đến Cồn Mô, dưới chân núi, cả phường đặt gánh nghỉ chân. “Nàng Me” ở nhà nấu nướng xong, đã đưa điếu đóm, trầu nước lên đợi sẵn.. Trên đường về nhà, đám con trai đồng thanh hát đi hát lại một giặm ngắn: Động Cơn Mai thì dốc - Động Đó thì dài - Ra đến động Hai Vai - Thậm chừng chi là khỏe - Chi thậm chừng là khỏe. Mỗi khi đám con trai hát xong một lần thì hai “nàng Me” reo lên: “Hay chưa!” Và cứ thế về nhà. Cơm nước xong, họ lại cùng trai gái trong làng họp nhau hát đối đáp đến khuya… (theo “Hát giặm Nghệ Tĩnh” T.1 của Nguyễn Đổng Chỉ).
*
* *
Hát ru: Ngày xưa bất cứ người con gái nào cũng học, cũng biết hát ru em, để khi làm mẹ biết ru con. Ở Can Lộc, cũng như nhiều nơi khác người ta đều ru con bằng câu văn lục bát, nhưng với nhạc điệu riêng, cung bậc riêng của tiếng nói xứ Nghệ. Mở đầu câu hát ru là “ơ, ờm”… chứ không “à, ơi”… như ở Bắc Bộ.
- Đôi ta như Kim Trọng với Thúy Kiều
Đã nghe lúc đắng, đã nhiều lúc cay…
- Cứ chi vườn ngọc, ao quỳnh.
Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa này..
Khác với các vùng trong nước, ở Nghệ Tĩnh – Can Lộc, người mẹ, người chị, và cả ông bố còn ru con bằng các bài giặm, nhất là giặm vè. Ở đây không ai lại không thuộc những bài Phụ tử tình thâm, Mẹ dòng lệch gối nghiêng chăn, Mẹ dòng than thở cùng còn, Bấm chí làm giàu… và cả những khúc “tình ca”, những bài vè yêu nước.
- Nhiều bà mẹ lại ru bằng thơ Kiều, và truyện Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa nữa.
Hò: Là tiếng hát để động viên, cổ vũ nhau khi lao động và để đánh nhịp cho các động tác lao động. Phổ biến nhất là các điệu hò kéo gỗ, gánh nhà, đẩy thuyền, kéo lưới. Sau cách mạng còn có điệu “Hò dân công” du nhập vào, trở thành điệu hò duy nhất được sử dụng rộng rãi.
Múa dân gian: Chủ yếu là một số điệu múa tropng cúng lễ khi làm chau, thiết đàn: Múa cờ, mùa gươm, múa trống… do các thầy cúng thực hiện. Trong một đám tang lớn, có múa “Phương tướng” (cũng là múa kiếm, múa cờ, múa gậy…). Dịp tết có múa sắc bùa (“lộn” sắc bùa), múa sư tử. Trong sinh hoạt ít thấy có múa ngoái mấy điệu múa quạt, múa hoa trên sân khấu chèo. Tuy nhiên, các điệu múa trên cũng là của chung, của nhiều vùng, chứ không của Can Lộc, Nghệ Tĩnh.
*
* *
Thiên Lộc – Can Lộc là nơi sản sinh ra và đến nay vẫn lưu giữ được nhiều Truyện kể dân gian tiêu biểu, bao gồm cả thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười v.v…
Sự tích núi Hồng Lĩnh là một mảnh của thần thoại ông Đùng; nhưng được kể thành một truyện riêng, hoàn chỉnh, gồm việc ông Đùng giắt núi và huyền thoại trăm con chim thần bay về mà có tên núi (xem truyện ở phần phụ chép).Trên núi Hồng Lĩnh hiện còn những hòn đá lớn, được dân gian gọi là “Đá ông Đùng”. (Trên núi Cài và ngọn Vân Am núi Hồng có hòn đá in dấu chân khổng lồ lại gọi là đá Chân Tiên). Ở truyện ông Đùng, con người khổng lồ xuất hiện, “khác với người thường, tách hẳn ra khỏi sự vật và người thường, đối lập với sự vật và to lớn hơn người thường, (nhưng) con người khổng lồ này là một người nông dân thật sự, một người nông dân được phóng đại lênkichs thước vũ trụ, non sông, qua trí tưởng tượng của người nông dân đó mà thôi.. Chính người nông dân đã tự vẽ mình lên trên thiên nhiên và tạo vật mà không biết, không hay” (Cao Huy Đỉnh - Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam),
Truyền thuyết và cổ tích còn lại khá nhiều, nhất là truyền thuyết và cổ tích lịch sử, gắn chặt với lịch sử vùng đất này.
Đáng chú ý trước tiên là truyền thuyết liên quan đến thời đại các vua Hùng: Sự tích cố đô Việt Thường (xem truyện ở phần phụ chép).
Truyền thuyết về thời Bắc thuộc cũng không hiếm: Người cưa cột đồng Mã Viện (thời thuộc Hán), Căn cứ Can Mai ở Ngàn Hống (thời thuộc Đường) đều là chuyện anh hùng. Lại c cả huyền thoại về Thần núi Sư tử trừng phạt Cao Biền…
Cố tích lịch sử là mảng truyện khá đậm đắc. Ở đây “con người xây dựng nên lịch sử… xuất hiện đúng với vóc dáng của hiện thực, mang sức mạnh của hiện thực” (Nguuyễn Đổng Chi –Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam). Truyện Thám Hồ, Cố Bu… là những truyện anh hùng nông dân. Truyện Hầu Thượng Ngật, Hầu Thượng Lan… là truyện những danh thần, nhân vật lịch sử đậm chất dân gian.
Cổ tích thế sự gồm có mảnh truyện về nguồn gốc muôn loài, muôn vật, gốc tích các nghề nghiệp, các tục lệ, và mảng truyện về tài năng, đạo đức của nhân dân. Đá vọng phu và Bà Vạn là những truyền tiêu biểu (xem truyện ở phần phụ chép). Ngoài ra còn có truyện hoang đường như truyện Bàu Tiên, truyện Rú Đụn nhưng loại này không nhiều lắm.
Truyện Chử Đồng tử tu tiên đắc đạo ở Quỳnh Viên và những mẩu chuyện về Bà chúa Liễu Hạnh rất phổ biến ở Thiên Lộc - Can Lộc, nhất là truyện Nhị Nguyễn Đạiơng…Đó là Tiên thoại. Còn sự tích Chùa Hương và Phật thoại Trung Hoa được Việt Nam hóa.
Truyện cười rất phong phú và đa dạng. Dân Thiên Lộc – Can Lộc xưa nay rất thích vui đùa, thích “trạng”. Đời Lê, Thiên Lộc đã từng có ông Tam nguyên Nhị Giáp Tiến sỹ Nguyễn Văn Giai làm thơ nói trạng.
… Sức khỏe Hạng vương cho nửa đấm,
Cờ cao Đế Thích chấp hai xe!.,.
Hầu như ngày nay ở Can Lộc không có làng nào lại không có một “ông trạng” như vậy, lại có cả một “làng trạng” Yên Huy.
Trạng, nói trạng, có nơi gọi là “nói lối”, “nói lung lương”, khong phải là nói láp, nói dóc, nói dối, mà là câu nói phóng đại, khoác loác một chút, mà dí dỏm, để gây cười. “Chuyện trạng” là một loại chuyện vui cười của riêng người xứ Nghệ.
Các nhà nghiên cứu thường chia chuyện cười thành hai tiểu loại: Truyện khôi hài, truyện tiếu lâm. Cả hai loại đều khai thác những hiện tượng không bình thường, trái khoáy, dùng thủ pháp cường điệu và cả yếu tố dâm, tục để gây cười.
Truyện khôi hài thường tạo nên tiếng cười nhẹ nhàng thoải mái để mua, vui. Chuyện trạng Yên Huy đều thuộc loại này.
- Ông kia đến chơi nhà thông gia, khi ăn trầu, thấy mấy miếng cau ngon liền hỏi: “Đây cau nhà phải không ông”. Ông thông gia tỏ ra ngơ ngác, một lúc sau mới trả lời: “Cau ngoài vườn đó ông ạ”!
- Người cha ốm, nằm liệt giường, con bưng bát cháo đến dỗ mãi cha mới gượng dậy ăn vài ba thìa. Con sốt ruột bảo: “Cha cứ nót (nuốt) bừa đi thử mồ (nào). Cha vừa thở vừa nói: “Cháo nỏ (không) nót được nửa là nót bừa” (cày bừa).
Ở đây thủ pháp để gây cười là “chơi chữa”: “Cau vườn” chọi với “cau nhà”; Nót (nuốt) bừa = nuốt nhào, nuốt nhanh,chọi với nuốt bừa = nuốt cái bừa.
Cũng có những truyện khôi hài có mục đích phê phán những thói hư tật xấu một cách nhẹ nhàng, như chuyện Lý trưởng lập Hội (những người) không sợ vợ, chuyện Hai ông thông gia hà tiện, chuyện Xin đi chín chục v.v..
Truyện tiếu lâm: Cũng là truyện cười, nhưng nặng nề trào phúng, đả kích, có mục đích phê phán rõ ràng như truyện Anh bu ga, anh ba lạt, nói chuyện bọn có chức vị gian dâm (chánh tổng, lý trưởng, sư chùa).
Cùng với những truyện cười mang dấu ấn địa phương. Người Thiên Lộc - Can Lộc cũng kể nhiều truyện du nhập từ nơi khác đến, có khi khác đi đôi chút cho phù hợp với môi trường.
Ngoài các loại trên, người Can Lộc còn kể nhiều truyện ngụ ngôn, nhất là những mẩu chuyện, những giai thoại về các sự kiện, nhân vật lịch sử, văn hóa, trong đó có mảng giai thoại văn học khá phong phú.
*
* *
Kiến trúc, mỹ thuật dân gian ở Can Lộc, tuy không còn lại nhiều công trình cổ và tác phẩm tiêu biểu, nhưng cũng không phải nghèo nàn.
Kiến trúc bao gồm nhà ở và công trình đền, chùa.
Can Lộc, cũng như Hà Tĩnh, Nghệ Tĩnh nói chung là vùng khí hậu đặc biệt khắc nghiệt. Mùa hè thì nắng nóng, gió Lào, mùa thu thì mưa gió, lụt bão lớn. Thêm vào là chiến tranh và biến động xã hội triền miên. Vật liệu xay dựng chủ yếu lại là tre, gỗ, nứa, lá nên các kiểu nhà ở dân gian ngày xưa hầu như vắng bóng và số nhà từ trong, ngoài trăm năm cũng hiếm thấy.
Nhưng qua một số hiện còn và qua các tài liệu ghi chép thì thấy nhà ở vùng này có khác với kiểu nhà từ Thanh Hóa ra, và từ Quảng Bình trở vào. Đặc điểm dễ nhận trước tiên là nhà ở đây thường “hẹp lòng, thấp mái”. Do mái nhà kéo xuống quá thấp, ra vào phải cúi, nên có câu: “Vô bái nhà, ra bái ngõ”, và người ta thường “triết lý” rằng “Lo chật bụng không lo chật nhà” để biện bạch về nhà cửa chật chội.
Xưa kia nhà thường có một số kiểu nhất định:
- Kiểu nhà “chữ đinh”, mỗi vì ba cột, cột giữa cao đến đòn đông (thượng ốc), xà ngang (văng hạ), luôn qua cột cái và gác lên đầu hai cột con. Kiểu này rất vững nên khá phổ biến, nhất là nhà tre: Nhà chữ đinh, đình tứ trụ.
- Kiểu nhà “tứ trụ”, mỗi vì có 4 cột (hai cột cái, hai cột con) hoặc 5, 6 cột (thêm một hoặc hai cột hiên). Nói “tứ trụ” là hai vì gian giữa (gian bảy) nhất thiết phải có 4 cột cái, còn các vì khác có thể “trốn cột”, thay cột cái trước bằng một cột đội (hay cột bồng) kề lên cánh hạ. Kiểu “tứ trụ” tùy từng nơi, có “tứ trụ nhà kẻ”, “tứ trụ nhà kèo”, “tứ trụ nội kèo ngoài kẻ”, “tứ trụ nội kẻ chuyền ngoại kẻ mái”. Nhà “tứ trụ” vững chãi bề thế nên có câu: Cha thương con làm nhà tứ trụ; Em về Ba Xã mà coi - nhà ba gian tứ trụ cũng treo oi khắp làng…
- Kiểu nhà “lòng lẫm” cũng vững chãi, bề thế, lại thực dụng hơn. Vì nhà kiểu này đường xà ngang xuuyên qua cột cái ở một mức thấp hơn (cũng gọi là “hạ thứ”), để phía trên được cao rộng hơn, lát ván hoặc phên nứa làm “lẫm” chứa thóc hoặc đồ đạc. Kiểu “lòng lẫm” cũng phát triển thành nhà “ba lòng” (đường xà ngang xuyên qua 2 cột cái, chia nhà thành 3 khoảng đều nhau), hoặc cải tiến thành nhà “lòng chạn”.
- Kiểu nhà “xóc nách” chủ yếu mỗi vì có một đường xà ngang gọi là “xóc nách” gác lên cột con phía trước luồn qua cột cái phía sau. Từ cột cái này đến cộ con (sau) có một đường hạ nối liền, gọi là “đấm” hoặc “con ngang”. “Con ngang” thấp hơn “xóc nách” thì gọi là “con ngang hạ thứ”. Kiểu này cũng xuất phát từ “chữ đinh”, nhưng được cách tân, thoáng, đẹp hơn.
Về sau người ta không thích các kiểu “tứ trụ”, “lòng lẫm” vì vừa tốn gỗ, vừa nặng nề, để cho mái nhà cao thoáng hơn, người ta bỏ kèo (hai đường gỗ cặp hai bên đầu cột) mà thay thế bằng “giao duyên” (một đường gỗ đặt lên đầu cột cái, cột con) hoặc “nội giao nguyên, ngoại kẻ”.
Trừ kiểu “chữ đinh” và kiểu “tứ trụ” cặp kèo, có thể là nhà tre, các kiểu khác đều là nhà gỗ.
Nhà ở đây thông thường có 3 gian, chỉ có một số ít có 5-7gian, gian giữa thường rộng hơn, dù là nhà 3 gian hay 5 gian cũng gọi là “gian bảy”. Nhà 3 gian thường một hoặc 2 chái, gọi là “ba gian một hồi” hay “ba gian hai hồi” (ở đằng trong, nói về đất Hà Tĩnh trở ra có câu: “Nhà không chái, đái không ngồi, nồi không quai”, nhưng chỉ có một số vùng ở Nghệ An mới có”nhà không chái”).
Phía trước nhà là dãy hàng hiên (thềm). Vách thừng đóng ở hàng cột con phía trước, trừ gian mở cửa. Cửa lớn thường mở ở gian giữa và gian ngoài, còn gian trong là cửa sổ, và chái bên phải(từ ngoài nhìn vào) là “cửa mạch”. Gian trong (trước có cửa sổ) thường là gian buồng, nhưng cũng có khi “gian bảy” là gian buồng. Gian buồng có cửa buồng phía “nhà trong” và cửa nhỏ ra “nhà ngoài” gọi là “cửa khém”. Về sau người ta chỉ ngăn một buồng nhỏ từ cột cái trở vào ở gian trong, gọi là “buồng khém”. Lại có một số nhà ngăn dọc suốt 3 hoặc 5 gian trừ dãy cột cái sau trở vào, làm thành một dãy buồng phía say gọi là kiểu “tiền khách hậu chủ”. Bên cạnh nhà chính (thường gọi “nhà nậy” (lớn), một số gia đình khá giả còn có một nhà nhỏ dựng vuông góc với nhà chính gọi là “nhà ngang”. Ở vùng lụt, nền nhà ngang thường đắp rất cao nên có tên “nhà cồn”. Nhà này thường cũng là nhà bếp, và nối với chuồng trâu, chuồng lợn..,
Ngày xưa chỉ có một số nhà ít ỏi được xây tường gạch hoặc đá ong và lợp ngói vảy, còn hầu hết, kể cả nhà gỗ lim lớn đều lợp tranh (bằng rơm, rạ, lá mía, lá săng, lá mây đắng, liếp nứa đan, hoặc ở gần núi có thể dùng tranh lá ngũ quân một thứ lá khó cháy). Vách thưng ván, cửa bức bàn, khung đố… chạm trổ đều rất hiếm. Hầu hết là nhà thưng vách (phên) tre, nứa. Cũng có nơi vách bằng nòng tre, trát đất (toóc – si) hoặc bằng đất nện (ở ba phía nhà mái thấp) có khhi vách chỉ là tấm liếp cặp lá cây hoặc phên nứa – nhất là vách mặt trước.
Nhà ở đây được xây dựng trong một không gian rộng rãi, thoáng mát. Trước nhà là sân đất; sân gạch, tường dắt rất hiếm. Quanh nhà là vườn rau, vườn cây ăn quả. Những nhà có vườn rộng thì quanh vườn có lũy tre bao bọc, phần lớn nhà hàng rào là loại cấp thấp hơn như duối, hóp, chè mạn hảo, giâm bụt.
Ở Can Lộc, Hà Tĩnh những đền chùa lớn xây dựng từ đời Lý, Trần, Lê sơ đến nay đều không còn, cả các công trình xây dựng bằng gạch đá cũng rất hiếm. (Qua sách cũ thì chùa Nghèn với tháp Cửu diện được xây đời Lý nhưng tháp đã đổ đời Lê Cảnh Hưng; Chùa Hương Tích có từ đời Trần nay chỉ có dấu vết ở một ít gạch nung; đền Đặng Quốc Công và Đặng Bình Chường đời Lê sơ cũng không còn nữa…). Số ít ỏi đến chùa họa hoằn còn lại đến nay đều là kiến trúc cuối Lê và đời Nguyễn, phần lớn là từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Các đền Nhị Nguyễn Đại vương, Thượng Xuân Mai, và nhiều đền chùa nay chỉ là những phế tích. Nhưng một số chùa (Hương Tích), Hà Linh, Chân Tiên….) và đền (Anh liệt Đại vương – tức đền họ Nguyễn Huy, nay thường gọi đền Nguyễn Huy Tự, Đặng Quốc công, Lê Quận công, Tam Lang… thì nay vẫn còn. Đền Tam Lang là một công trình kiến trúc mỹ thuật có giá trị 9xem phụ chép ở phần Danh thắng di tích).
Như ta biết, cho đến đầu đời Nguyễn, phần lớn chùa đền vẫn là sườn gỗ, mái tranh, vách ván. Số công trình bằng gạch ngói còn rất hiếm, mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX mới được xây dựng phổ biến.
Nhìn chung, chùa đến, đình, miếu ở Can Lộc (cũng như ở các nơi khác trong tỉnh) không mấy nguy nga, đồ sộ, trừ một ít công trình chạm trổ có giá trị còn thì đều bình thường, mặc dầu Can Lộc có nhiều thợ chạm khắc giỏi (Trần Hữu Phúc ở Phúc Lộc; Đậu Bá Hiền và nhiều người họ Đậu ở Thịnh Lộc; Nguyễn Đình Dụ, Nguyễn Đình Toái, Nguyễn Duy Hạ, Nguyễn Duy Khanh ở Tân Lộc; cố Tiền, cố Cúc, cố Quỳnh, cố Quyến, cố Lương ở Kim Lộc; cố Bùi Viện ở Hồng Lộc truyền đến đời con cháu là Bùi Văn Long…).
Tuy những công trình xây dựng không lớn, nhưng người ta lại rất quan tâm đến cảnh quan. Bất cứ chùa đền nào cũng có vườn rộng, xung quang cây cối râm mát, phía trước thường có cây đa, cây thông cổ thụ, tạo vẽ tĩnh mịch thâm nghiêm. Chùa đền ở bên núi có khe, có đá thì cảnh càng tuyệt.
*
* *
Mỹ thuật dân gian qua nhiều biến cố lịch sử đến nay không còn lại bao nhiêu.
Ở Can Lộc, cũng như ở các nơi khác, người ta thường mua các loại tranh thờ, tranh tết vẻ treo. Đó là các tranh thờ khắc gỗ; Trâu - bò - lợn, giấy tiền, tờ “phú” “quý” “phúc mãn đường”, tranh hổ hay ngũ hổ…’; các tranh tết hoa, lá, cá, chim v.v.. bán ở các chợ lớn.
Trên cánh cửa đền Tam Lang (Hậu Lộc) có hình vẽ rồng, phượng đã mờ và dưới lớp thuốc vẽ ấy hiện ra dấu vết một bức tranh khác vẽ hình một nhóm nghệ nhân ra múa quạt. Theo các nhà nghiên cứu thì đó có thể là một điệu múa thờ nào đó từng được trình diễn ở đây ngày trước.
Gần đây ta còn được biết cuốn sách Hoàng hoa sứ trình đồ của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, có hơn trăm trang vẽ lộ đồ, thực chất là những bức tranh phong cảnh vẽ theo lối “tẩu mã”.
Các mảnh chạm gỗ ở đền chùa cũng không hiếm, tập trung nhất là ở đền Tam Lang (có các mảng chạm cánh sen và rồng mây, hoa lá, mặt trời, tứ linh, bát bảo… cảnh bơi thuyền, cảnh đám rước…). Ở nhiều đền chùa khác đều có những mảnh chạm khắc độc đáo như ở nhà thờ họ Nguyễn Huy chẳng hạn. Rất tiếc là cho đến nay đền chùa không còn mấy nên chúng ta khó đánh giá được đầy đủ.
Tượng và phù điêu cũng còn lại không nhiều. Tượng phật thì chùa nào cũng có, nhưng ở đây thiếu vắng những pho tượng độc đáo. Tượng chân dung cũng không thấy ở các đền miếu, nhà thờ.
Ở các đền, miếu đền có các tượng tướng văn, tướng võ, voi ngựa, quy, hạc bằng gỗ, nhiều nơi có các tượng voi ngựa, nghê đá, tiêu biểu là ở Sùng Chỉ, lưu niệm Tiến sĩ Hà Tôn Mục xã Tùng Lộc.
Trên tưởng cổng, bình phong các đền có những phù điêu tướng sĩ, voi, ngựa, rồng, hổ, hay hổ phù… đắp bằng voi vữa… còn trên nóc, mái thường đắp hình “lưỡng long triều nguyệt” và có các con sấu.
*
* *
Sân khấu dân gian - Ở Can Lộc có câu: Trò Kẻ Lù cù, Kẻ Chòi, hay Trò Kẻ Lù, vạt cù làng Ngang. “Trò” ở đây là gọi chung tuồng, chèo – các loại hình sân khấu dân gian – hay được dân gian hóa. Ở Hà Tĩnh gọi tuồng bộ là “Trò bội” và chèo là “Trò Kiều” (diễn tích Kiều) “Trò Trương Viên” (diễn tích Trương Viên).
Không phải chỉ Kẻ Lù – Phù Lưu Thượng nay là Hồng Lộc, mới có “trò”, mà rất nhiều làng xã cũng có, và nhiều làng nổi tiếng: Bạt Trạc, Kỳ Trúc, Phổ Minh, Tràng Lưu v.v… Nhưng “trò Kẻ Lù” một thời được cả huyện, cả tỉnh biết đến.
Chưa có tuồng, chèo du nhập vào Hà Tĩnh, Nghệ Tĩnh từ bao giờ. Riêng ở Phù Lưu Thượng thì “phường chèo đã có từ xưa… Phường chuyên hát chèo, đến thời cụ Trần Hoàn (cố Tạo) làm trùm phường, cố mời thầy ở Huế ra tập hát trò bội (tuồng). Từ đó phường hát chèo chuyển sang hát bội, có khoảng 15 người. Vở diễn là “Sơn hậu”, “Tiết Cương”, “Ngũ hổ bình Liêu”, “Ngũ Triệu”… sau Cách mạng tháng 8 có thêm vở tuồng “Trưng nữ vương”.
Phường hoạt động khá bề thế được Bố chánh Hà Tĩnh Tôn Tất Chử cấp giấy phép nhân dịp vào hát mừng ông đến nhận chức. Từ đó mỗi lần các vị quan tỉnh, quan huyện đến nhận chức, mở tiệc mừng, đều triệu tập phường tuồng này. Tri huyện Trần Mạnh Đàn là ông quan thích tuồng nhất. Những năm trước cao trào ba mươi, thường năm nhân dịp lễ tết, thỉnh thoảng ông có mời phường tuồng lên hát. Các lễ ăn mừng được bội tỉnh của cụ Thượng Trình, cụ Nghè Tùng, cũng như các lễ hội ở Kim Đôi, Vĩnh Hòa, huyện thị, phường đều có biểu diễn.
Từ năm 1930 nhiều anh em trong phường tuồng tham gia hoạt động cách mạng. Ông đồ Tuy, tức Hồ Ngọc Tàng, hồi đó là Tỉnh ủy viên, cán bộ xứ ủy, có thời gian giữ vai trò chủ chốt trong phường trò. Sau đó, ông bị bắt và bị bắn. Một số anh em cũng lần lượt bị bắt. Phường trò đình đốn một thời gian. Thời gian ông đồ Tuy đi vắng, anh em trong phường làm thơ hỏi ý kiến, thơ viết theo dạng bài hát phường tuồng, có những câu:
“Ở Hán, ở Hồ hay ở Ngụy,
Theo Tần, theo Hán có theo Tề?
Cả phường đang đứng chờ trông chú,
Hành, chỉ như hà hỡi chú Tuy?
Hiện tại còn một số cụ trong phường trò đang sống như cụ Bùi Tiên, Mai Thoan, Bùi Thiệm… Cố Thuận chuyên cầm trống và trống giỏi. Nhưng đã khá lâu phường trò không hoạt động nữa” (Võ Hồng Huy – Làng cổ Hà Tĩnh, tập II. Trang 28 &83).
Một phường trò khác cũng khá nổi tiếng là phường trò Tràng Lưu thường diễn các tích Kiều, Trương Viên, Lưu Bình – Dương Lễ. Phường do ông Lý trưởng Nguyễn Huy Hòa đứng đầu. Trong các buổi diễn, ông là người cầm chầu. Kép có anh Bường, anh Tâm; đào có o Ba là trổi nhất, được người xem quý mến. “Anh Tâm”, Nguyễn Văn Tâm, tức cố Tâm là chú ruột ông Dần, nguyên diễn viên đoàn văn công tỉnh, và “o Ba” là Trần Thị Ba – chị ruột của Nghệ sĩ ưu tú Trần Đức Duy bây giờ. Phường trò Tràng Lưu hoạt động từ đầu thế XX mãi đến sau Cách mạng tháng 8 mới dừng. Đến nay ở Tràng Lưu nhiều người vẫn thuộc bài “Giáo đầu” của phường, nhân buổi diễn do tri huyện Can Lộc mới đến nhận chức tổ chức năm 1921. Bài hát do ông Nguyễn Huy Mơ viết (cố Thao đọc, ông Nguyễn Huy An ghi và cung cấp năm 1971) có đoạn:
… Trong giang sơn như vẽ mặt anh hùng.
Núi con cao mà sông hãy còn trong,
Hồn cố quốc luống mơ màng bên gối.
Âu Á phong triều tân vận hội,
Lạc Hồng chủng phái cựu tu mi.
Khéo xinh thay phong cách huyện Can ni,
Có bút bảng kiếm kỳ triều trị (?)
Nơi thẳng cảnh đợi người thắng trí…
Cần nói thêm rằng chèo (xưa) là một loại hình sân khấu dân gian, “Sân khấu” chỉ là chiếc chiếu trải giữa sân đình, sân nhà (chiếu trò), một phía là “buồng” diễn viên, còn ba phía, người xem quây quần thành vòng tròn… Xưa các phường không có (hoặc không cho) phụ nữ tham gia, nên “đào” cũng do đàn ông hóa trang, đến trước cách mạng mới có đào nữ. Phường trò thường chỉ bát tích Kiều, Trương Viên… dựa theo cốt truyện Kiều, Trương Viên… các “trò” này sử dụng một số làn điệu chèo Bắc, chủ yếu là hát (nói) sử và một vài làn điệu khác, có khi dùng cả dân ca hoặc tuồng bộ (như vai Từ Hải)… nghĩa là chèo đã được “Nghệ Tĩnh hóa”.
Tuồng bộ vốn không phải là bộ môn sân khấu dân gian mà là loại sân khấu chuyên nghiệp – được du nhập vào Nghệ Tĩnh(1) nên cách diễn quy củ hơn, nhưng ở làng xã, thì tuồng không khỏi ít nhiều dân gian hóa.
*
* *
Nghệ thuật dân gian tuy đến nay chỉ còn lại rất ít ỏi, nhưng cũng cho ta thấy nó vốn rất phong phú và không ít những tác phẩm xuất sắc.
*
* *
3. Một số lĩnh vực văn hóa dân gian khác.
Lễ hội: Là hình thức sinh hoạt văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Lễ hội tập trung ý nghĩa văn hóa “thường vẫn là sự tổng hợp văn hóa thời đại”. Hội cũng biểu lộ sự khép kín “tự cấp tự túc” văn hóa trong từng làng xã, từng vùng. Là một bộ phận quan trọng trong đời sống nông thôn ngày trước, hội hè có mối liên quan trực tiếp đến mọi thành viên trong cộng đồng, kích thích tình cảm và huy động trí tuệ của con người.
Cũng như ở nhiều nơi khác, ở Can Lộc, trước Cách mạng tháng 8-1945 có nhiều lễ hội. Có lễ hội chỉ là của một bộ phận nhân dân, nhưng có lễ hội liên quan đến và thu hút mọi người của làng xã hay của một vùng. Có lễ hội chỉ có tính chất đột xuất, lại có lễ hội định kỳ hàng năm, 3 năm, 5 năm một lần.
Từ lâu ở đây không còn thấy dấu vết của loại lễ hội phồn thực giao duyên (gắn với việc thờ “giống) nam nữ - Linga-Yomi), hay lễ hội nông nghiệp (gắn với việc thờ lúa thời cổ), mà chủ yếu là lễ hội lịch sử (gắn với việc thờ Thánh hoàng, thờ anh hùng, danh nhân, nhằm đề cao truyền thống tốt đẹp) hòa quyện với các loại hội văn nghệ (múa hát, diễn trò), hội thi tài (thi vật, đấu võ, vạt cù, bơi lội, nấu cơm…).
Hội làng – hội đền thường mở vào tháng giêng, hai, kết hợp với hội xuân hoặc vào tháng 6. Lễ hội thường có lễ tế thần do chức sắc, hào lão thực hiện (lễ), rước thần gọi là rước sắc, cả chức dịch và xã dân tham gia (vừa lễ vừa hội). Làng ta mở hội rước thần, chiêng khua trống gióng xa gần vui thay. - Không chỉ chiêng trống mà còn cờ quạt, lọng tàn, gương dáo, kiệu,án, quần áo… đủ màu, đủ sắc. Phần hội thường có các trò chơi, các cuộc thi tài (cờ người, cờ thẻ, đánh đu, vạt cù, bơi thuyền, đi cầu kiều, đấu vật, đấu võ, kéo co, thi nấu cơm, đồ xôi…) các trò diễn (hát trò, hát bội, tức chèo, tuồng)…
Xưa có nhiều hội đền, hội làng nổi tiếng: Nhất vua ra, nhì Trảo Nha mở hội là nói về đền Linh Nha (hay hội chùa?) ở núi Nghèn.
Hội đền làng Tràng Lưu mở vào ngày 12-6 âm lịch. Ban ngày có các cuộc rước thần và các cuộc vui chơi, thi tài (đáng chú ý là thi đồ xôi), ban đêm thì diễn trò do phường trò (chèo) trong làng tổ chức.
Anh đi em nhớ em thương
Mười hai tháng sáu hội làng chớ quên
Trống rung màn mở chuông rền,
Vở chèo say đắm đêm đêm em chờ…
Lễ hội Đền Cả, tức đền Tam Lang ở Phan Xá, Lợi Xá (Ích Hậu) mở vào ngày mồng năm - mồng sáu tháng giêng âm lịch, thường gọi lễ Xuân Điển. Ngoài các lễ thức (như tế thần, rước thần), các cuộc vui chơi (như thi bơi, đấu vật, đi cầu kiều, kéo co, cờ tướng…) còn có hai cuộc thi vừa là thi tài vừa có ý nghĩa diễn xướng; đó là cuộc chèo bơi (đua thuyền) và cuộc thi “hành quân” diễn lại việc Thần Rắn (Thủy thần) “hành quân” gúp vua (Lê Thánh Tôn) đánh giặc: (xem thêm phần Danh thắng - Di tích).
Cuộc đua thuyền được tổ chức trên sông Kênh Cạn, trước Đình hát. Thượng hạ lưu đóng hai dãy cọc tre làm mốc, số cọc nhiều hay ít tùy số thuyền đua, thuyền đua là loại thuyền câu nhỏ dùng dầm bơi thay chèo. “Mỗi thuyền đua có 17 đấu thủ; 1 cầm lái chèo, 1 cầm chèo vọt (lái phu), 1 cầm cờ hiệu và gõ phách kiêm “lĩnh xướng”, khi thuyền thao diễn vừa bơi vừa hò khoan theo nhịp cừ phất và nhịp dầm gác mái răm rắp, 14 tay bơi được xếp thành 7 cặp ngồi cân đối dọc hai mạn. Về trang phục hai người cầm lái đều áo dài thắt lưng khăn lục ngãi, đầu bịt khăn nhiễu điều, người cầm cờ và các tay bơi đều quần cộc, mình trần, đầu bịt khăn màu theo màu cờ hiệu của đội. Chỉ huy cuộc đua là người “giám thị” do làng chọn cử, người này được mặc theo phẩm phục võ quan, đi thuyền rồng, dùng trống “đại hiệu” điều khiển cuộc thi… Trước lúc ra sông, làng thiết lễ, các đội bơi nghiêm túc xếp hàng trước đình, dâng hương “trình diễn”, mỗi đội bốc thăm nhận cờ hiệu có màu khác nhau. Xong thủ tục, các thuyền được triển khai tập “khởi động”… Bước đầu cuộc đua, làng rước cờ hiệu đền Lớn ra ngự trước bờ sông, dưới lá cờ đại đã được kéo cao trên đỉnh cột từ hôm bước vào hội. Trống lệnh nổi lên dứt tiếng cuối, các thuyền đua tức khắc chồm lên, đồng loạt lao vút như những mũi tên, mặt nước lững lờ bồng dậy sóng, tiếng hò reo vang dội xen tiếng pháo nổ, tiếng trống lớn, trống nhỏ cổ vũ thôi thúc liên hồi, thuyền nào quay về đích trước được giật giải nhất. Khi tất cả đã về đích, trống lệnh đổ hồi kết thúc cuộc đua, làng rước kiệu vào đình, cử hành lễ cáo tạ và phát thưởng. (Non nước Hồng Lam – S.Đ.D).
Cuộc “hành quân” (nấu cơm thi) thì được bắt đầu từ hôm mồng một Tết. Các xóm cử ra 12 trai để túc trực bên bàn thờ thần được coi như là bộ hạ của thần trong năm, thay mặt xóm dự cuộc thi. Theo tục lệ, họ chỉ cởi trần đóng khố, mặc dầu thời gian này thường mưa rét. Họ được các gia đình dọn cỗ mời ăn chứ không được về nhà. Ngày mồng 4 làng dựng nạp ở cuối làng tổ chức các đêm hát “tụng thần” của phường ả đảo, xen vào là diễn tích chèo, tuồng… do làng đã hợp đồng đón về. Ngày mồng 7, dân làng tập trung lại nghe đọc Văn thúc ước (với mục đích gây niềm tự hào về quê hương, và trách nhiệm giữ thuần phong mỹ tục. Sáng ngày, … cuộc thi bắt đầu. Các đấu thủ phải chạy đi lấy nước vào ống bù (bầu) ở một nơi các xa đến 2 cây số, giã gạo trong cối gỗ (cối chày đều mới đẽo), rồi kéo lửa bằng bùi nhùi và thổi cơm bằng những niêu đất đặt trên 3 cọc tre đóng xuống đất, đun bằng những nắm lá mía bó sẵn. Cơm ai nấu được ngon nhất thì được giải. Có câu “12 trai 3 giải lo chi”, ý nói giải nhiều, người thì ít không sợ không được.
Cũng như các huyện trong tỉnh; các chùa ở Can Lộc đều làm lễ “thí thực” vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, lễ này do nhà chùa (nếu chùa không có sư thì chức dịch) đứng ra tổ chức. Lễ cúng Phật, cầu siêu đều do sư sãi chủ trì. Lễ vật thường có hoa quả, oản, cháo, gạo, muối… Lễ xong người ta ném gạo muối ra bốn phía sân chùa và múc cháo vào các lá đa, lá mít để phân phát cho các cô hồ. Tiếp đó, theo lời hô của chủ lễ dân làng ùa vào bàn thờ cướp các lễ vật gọi là “cướp cỗ cô hồn”. Người ta cho rằng ai cướp được trước và được nhiều thì gặp may mắn (có khước).
Cũng dịp này, gia đình nào cũng cúng tổ tiên và đốt vàng cho vong nhân. Có câu: “Cả năm được rằm tháng bảy”.
Hội chùa chỉ có ở chùa lớn như chùa Hương Tích. “Tháng giêng Đô Đài, tháng hai Hương Tích”. Đô Đài tức là đền Đô Đài ngự sử Bùi Cẩm Hổ ở xã Đỗ Liêu thuộc huyện Can Lộc, nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh, mở hội vào ngày 12 tháng giêng âm lịch hàng năm hay 3 năm một lần, lễ lớn. Hội Chùa Hương xưa có năm kéo dài những 10 ngày, thu hút khách thập phương các tỉnh đến lễ Phật, vui chơi và dạo cảnh (xem thêm phần phụ lục).
*
* *
Phong tục tập quán trong lễ nghi và trong sinh hoạt, ngoài những nét chung, Can Lộc cũng có những nét riêng biệt ở từng làng, từng xã, từng vùng nhỏ với những tục lệ đặc thù.
Trong dịp Tết nguyên đán ở một số nơi cũng có tục chờ người đến “đạp đất” mở hàng, để cầu may, hoặc có phường sắc bùa đến hát chúc.
Riêng ở làng Đông Thượng thì vào giờ Giao thừa, một người do làng cử (thông thường là người mõ làng) ra cánh đồng phía đông làng vừa đi vừa rao to (trích):… Hen ho rò rực - Đổ về nam hà - Cháy cửa cháy nhà - Đổ về đồng Báng - Chân đi chếnh choáng -Đổ về cồn Đu - Lắm rọng (ruộng), nhiều tru (trâu) - Đổ về cửa cổng … Người ấy rao xong, nổ một bánh pháo để “xua cái đen”. Dân làng đều tin làm như vậy là mọi bệnh tật, mọi điều đen đủi không xẩy ra trong năm đó nữa.
Xưa kia, vào dịp trước tết, các phường thợ săn vùng Hồng Lĩnh và Trà Sơn đều vào núi săn bắn thú rừng để về cúng tết, gọi là “Liệp tế”. Từ lâu tục “Liệp tế” không còn, nhưng ở vùng Nội Can Lộc, phường săn vẫn đi săn và giữ một vài tục xưa: Khi chia phần ai là người đâm nhát đầu tiên vào con mồi thì được chia phần hơn (hoặc được lấy thêm phần thủ); bất cứ ai có mặt trong cuộc săn, dù không trực tiếp góp công, đều được chia phần. Đó là những tục lệ thời nguyên thủy.
Từ lâu đời, ở làng Phổ Minh có tục “đi lượt” vào dịp trước tết hoặc sau tết. “Đi lượt” là đi lấy củi tập thể. Mỗi phường thường có 8 người con trai, có một người đứng đầu gọi là “đầu lượt”, và 2 người con gái gọi là “me” hay “nàng me”. Gọi là “đi lượt” vì mỗi gia đình được phường đi cho một chuyến củi, một lượt. Ngày đầu tiên người “đầu lượt” cùng biện lễ trầu rượu cúng sơn thần ở cửa núi (Hồng Lĩnh). Nhà nào đến lượt nhận củi thì nhà ấy phải lo cơm nước. Một “nàng me” được cắt ở nhà giúp chủ nấu nướng, còn 9 người đi lấy củi. Lên núi, “nàng me” thứ hai có nhiệm vụ ví hát động viên, còn 8 chàng trai vui vẻ làm việc, chặt củi bó thành 9 gánh, trong đó một gánh để dành cho “nàng me”… mỗi người còn lấy thêm một bó mang theo, khi xuống núi đến Cồn Mô nghỉ chân, thì góp lại, bó thành một gánh cho “nàng me” ở nhà, đưa trầu nước lên đón sẵn ở đây. Sau lúc nghỉ ngơi, 10 người cất gánh lên vai vừa đi vừa hát vui vẻ…
Cùng mang ý nghĩa tương thân tương trợ như thế, ở Thuần Thiện có tục “đi tranh”. Nhà nào đến lúc phải lợp thì báo cho cả xóm biết, xóm sẽ tổ chức một ngày vào núi lấy tranh về, đánh tranh và giúp lợp nhà. Có nơi không “đi tranh” thì mỗi nhà đánh dăm mười cái, góp lại để giúp nhà chủ…
Ở đây còn có tục nhà nào cưới xin thì ngoài việc đến giúp hoặc đi mừng như các nơi khác, cả làng, cả xóm còn đến ăn uống một vài ngày. Có điều, mỗi nhà tùy theo số người nhà mình mà nấu một nồi cơm, gánh đến. Nhà chủ chỉ lo phần thức ăn, nhưng chủ yếu vẫn chỉ là canh rau, chỉ nhà khá giả mới có thịt cá. Đến bữa, già trẻ, trai gái trong xóm kéo đến ăn uống đông vui…
Lễ mừng thọ các bậc cao niên (chỉ với đàn ông) thì phần nhiều làng xã đều có. Nhà khá giả thì con cháu tổ chức lễ thọ trong gia đình, mời làng xóm đến ăn mừng. Nhà không có khả năng làm thì làng vẫn theo lệ, đi mừng. Có nơi quy định rất rõ ràng trong hương ước. Ví dụ:
Hương ước thôn Tràng Lưu ghi: “Tuổi sáu mươi trở lên, tùy tuổi mà đứng thứ tự. Mỗi bậc hơn một mạch (10 đồng tiền đồng hay 60 đồng tiền kẽm): Sáu mươi tuổi một mạch, bảy mươi tuổi hai mạch… Ngày mừng (thọ) thì đều đến chúc mừng ở đình để tỏ sự tiết kiệm”.
Hương ước xã Phù Lưu Thượng quy định: “Đặt ruộng dưỡng lão… tổng cộng 19 thửa gần nhau. Người thọ 100 tuổi chiếu cấp 4 phần, thọ 90 tuổi trở lên cấp mỗi người 3 phần, thọ 80 tuổi trở lên cấp mỗi người 2 phần…” và “người thọ 90 tuổi được hưởng ơn nước, lễ mừng như phó bảng (mừng tiền 20 quan, một câu đối trị giá 3 quan), người thọ 80 tuổi trở lên tuy chưa được hưởng ơn nước, nhưng có làm tiệc mừng đến mời, thì bản xã mừng như lễ mừng đỗ tú tài” (Mừng tiền 6 quan, trầu rượu trị giá 6 mạch).
Các tập tục về thờ cúng thần thánh ở làng xã, thờ cúng tổ tiên và gia thần trong nhà, tế tự giỗ tết, cũng như các tục lệ về lễ tang, lễ cưới, sinh đẻ, làm nhà mới, nói chung ở Can Lộc cũng không có gì khác mấy với các nơi trong tỉnh. Các tục kiêng khem cũng vậy. Nếu có điều khác thì cũng không lạ. Ví như: Sau khi rước dâu, con gái ra khỏi nhà cha mẹ rồi thì người ra trộn một nắm tro bếp với muối, gói lại rồi ném ra ngoài ngõ, ý là để khỏi ai gièm pha… có câu “Mun (tro) mói (muối) bỏ mồm” là vì vậy. Lại nữa, trên đường rước dâu, cũng như nhiều nơi khác, một nhóm người dăng dây ra đường (hoặc đặt án thư bên đường), chặn đoàn rước dâu lại để chúc mừng và để…. Được biếu tiền. Có khi để tỏ là người học thức, người ta treo sẵn một vế đối buộc họ gái phải đối xong mới được đi tiếp. Nay còn giai thoại về một đám rước dâu từ Hạ Yến về Hàm Anh: Đoàn rước dâu gặp một vế đối tục: Tay đè bơn ấp Yến, tức quá, cũng đối lại một vế tục không kém: Mồm (miệng) ngậm tràu Hàm Anh.
*
* *
Ăn và mặc là hai việc quan trọng của con người. Trước hết, con người làm việc cũng để có cái ăn, cái mặc…
Ở Can Lộc có câu Kẻ Én hay đu, Kẻ Lù hay vật, Kẻ Ngật hay ăn. Kẻ Ngật là Phù Lưu - Ích Hậu. Câu này là để nói đến Hầu thượng Ngật Nguyễn Văn Giai, tương truyền là sao Tất giáng sinh, nên ăn rất khỏe, có lần ăn hết cả 3 nong cơm (giai thoại).
Thật ra thì ở đâu cũng có người cho rằng Hay ăn hay uống phúc nhà và lo Ăn ba mánh (miếng) đánh ba chén. Nhưng nói chung người ta coi thường những người tham ăn, tham uống: Mánh ăn là mánh nhục, mánh nhục là cục trơi… Ăn cái không đáng ăn, ăn nơi không đáng ăn thì chỉ Ăn lỗ mạnh… ỉa lỗ khu (đít) mà thôi.
Mặc dầu biết rõ Cơm áo dôi ngài (người) - Khoai lan bù rợ dôi ai bao giờ, nhưng xưa kia dân ta quá nghèo, quen chịu đựng, nên Cơm cà (đã) là nhà có phúc, không thì chỉ Khoai làng chạc, nác (nước) chè trâm mà thôi, có nhà Nhà giàu cũng ăn rau trừ bữa.
Thức ăn hàng ngày chủ yếu là dưa cà, nhút, nước tương, nước cáy, cua, ruốc cáy, ruốc tép… có khi củ chuối, trái sung muối.
… Đất Xuân Liệu bầy tui (tôi) – Bắt một nạm cáy hôi – Về đâm đâm phơi phơi – Ruốc tui ngon lắm bà ơi – Ngon bằng năm ruốc họ - Ngon bằng mười ruốc họ. Nhút thì Nhà Từa rau vác, Dao Tác cà ngải, Phúc Hải bèn môn. Do đó, người ta phải tự an ủi mình. Ăn cơm nước cáy thì ngáy khò khò; thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản.
Không kể các loại bánh trái làm trong ngày tết, ngày giỗ, hàng chợ thường ngày cũng nhiều, nhưng chỉ là những món bình dân: Bún, bánh đúc (gạo và ngô), bánh gói (gạo tẻ, gạo nếp), bánh ngào, bánh tráng, bánh mướt (ướt), cháo kê, cốm và nhiều thứ khác. Đồ uống thì chủ yếu là chè xanh. Vùng chè Ngàn Hống từ xưa đã nổi tiếng nhiều chè và chè ngon. Một số làng ven núi và cả ở đồng bằng cũng có trồng chè trong vườn để tự túc. Nhưng ở nhiều làng người ta cũng uống chè trâm, chè ngấy, có khi uống nước lá ổi, nước gạo rang, chè vằng là nước uống thông dụng cho phữ khi sinh đẻ.
Tuy nhiên đây chỉ là việc ăn uống của đại đa số dân nghèo, còn một số người giàu và người buôn bán ở gần chợ búa thì không hoàn toàn như vậy.
Hơn nữa, khi giỗ tết, nhất là khi có đình đám thì nhiều nơi cỡ bàn rất hậu, với nhiều thức ăn ngon, lạ, chế biến cầu kỳ do những “thợ nấu” có tài đảm nhiệm, không có nem công, chả phượng, nhưng cũng giò lụa, chả tráng…. Mâm cổ hai, ba, bốn lớp chồng cao…
Do đời sống thấp, ít có điều kiện trau chuốt, dân Can Lộc cũng như dân Nghệ - Tĩnh nói chung chuộng ăn chắc mặc bền, kể cả nhà giàu và người làm quan cũng sống giản dị, ăn mặc giản dị, mặc dầu không phải là không biết làm đẹp. Á ba manh không ấm, không rét – cơm ba trét không đói, không no là quý rồi. Người ta chọn: Cơm tấm ăn no, vải to mặc bền. Vải to ở đây là vải khổ hẹp được dệt bằng tay ở Tỉnh Thạch, Tràng Lưu xưa hay ở Trổ (Đức Thọ), Đồng Môn (Thạch Hà)… về sau, dùng để may trắng hoặc nhuộm nâu non, nâu bầm. The lụa và các loại hàng tấm sang thì chỉ có nhà giàu mới dùng, và cũng hạn chế trong khi may quần áo cưới, quần áo lễ mà thôi.
Khác với nhiều nơi, đàn ba Can Lộc cũng như đàn bá Nghệ Tĩnh không mặc quần mà mặc váy. Câu đố về cái mấn (váy): Hình như cái trồng, thộng lộng hai đầu – Nghệ Tĩnh thí có, Kinh cầu thì không.
Đại loại xưa kia dân dã thì ngày thường đàn ông đóng khố, ở trần. Về sau người ta mặc áo ngắn năm thân rồi bốn (tứ) thân, gọi là áo khách, quần dài quá gối, đều may tay bằng vải to nhuộm nâu; tết nhất, hội hè, đình đám.. thì mặc áo dài năm thân vài thâm hay vải to nhuộm nâu bầm, quần trắng, vấn khản thủ rìu hay vấn khăn vành, đi guốc quai mây đế cao, mỏ cong, hoặc đi chân đất. Đàn bà mặc áo cánh nâu, yếm nâu hoặc trắng, vay đen thường nhuộm nâu bầm nhúng bùn, khăn thâm hoặc nâu non, khá hơn thì có áo dài nâu non mặc ngoài, thân áo thắt ra phía sau.
Người giàu có, chức dịch, nho sĩ thì ngày thường đàn ông cũng mặc áo kiểu dân dã, chỉ khác là may bằng loại hàng tấm mua ở chợ thành thị và may dôi dài hơn, thường là áo quần vải hoặc lụa, để mộc hay nhuộm da bài, ngoài là áo dài the, lương đen, có khi trong áo đen còn có một áo dài trắng; người rất sang thì mặc gấm, sa tanh, quần lụa trắng hoặc vải “Tây cống”, dây lưng nái hoặc lụa, vấn khăn nhiễu hoặc đội khăn đóng, đi guốc “Xà goòng” hoặc giày hạ. Đàn bà mặc áo vải trúc bâu, nhuộm nâu non hay áo tơ ngang, áo lụa nhuộm da bài, áo cát trắng, yếm đào hoặc trắng, váy sồi hay lụa thâm, thắt lưng sồi, khăn nhiễu hoặc sa tanh, ngoài mặc dài the, hoặc vải nhỏ nhuộm nâu non. Khi hồi hè đình đám thì người sang mặc áo lụa “mớ ba” (ba màu: tím, đào, ngãi), thường thì đàn bà đi chân đất, đi guốc, sang thì đi dép mỏ cong.
Đàn ông, đàn bà thường đội nón Thượng hoặc nón chợ Vi, chợ Cồ dày và cứng cáp, hợp với khi lao động. Người sang thì đàn ông đội nón Gò Găng, cá biệt có người đội nón lông chim, đi ô lục soạn. Đàn bà nhà giàu sang khi đi chợ đội nón bằng, quai thao. Về sau thì người ta đều đội nón Ba Đồn, nón Ba Giang….
Khoảng từ năm 1930 đến cách mạng (1945) thanh niên, trí thức dần dần thay đổi cách ăn mặc, con trai vẫn mặc áo dài đen, quần trắng, đi guốc có người đi dép xăng-đan hoặc giày da, đội mũ “cát” trắng, lẻ tẻ có người mặc âu phục, đồ “xoóc” hoặc “côm-lê”. Thiếu nữ mặc quần lụa trắng hoặc đen, áo ngắn cài khuy, áo dài “tân thời” (Lơ muya-Le Mur, kiểu áo do họa sĩ Cát Tường sáng tạo) đi guốc cao gót hoặc đi dép.
Phải đến sau Cách mạng một thời gian, việc ăn mặc mới thay đổi hẳn.
*
* *
Thủ công mỹ nghệ cũng khá phong phú ở Thiên Lộc, Can Lộc. Từ đó đời Lê đã có nghề bông vải ở Trường Lưu, với những giai thoại hấp dẫn về hát ví phường vải, đồng thời và về sau, nghề bông vải còn có ở nhiều làng xã (Kiệt Thạch, Ba Xã, Đỉnh Lự, Kim Chùy, Tỉnh Thạch v.v..).
Cùng với nghề bông vải là nghề nuôi tằm dệt lụa ở vùng Kiệt Thạch, Yên Huy, Phúc Xá, Phù Lưu… Ở Yên Huy, ngoài việc nuôi tằm dệt lụa còn dệt đũi và bán trứng tằm.
Nghề mộc thì hầu như ở nơi nào cũng có, nhưng từ lâu đời, thợ mộc có tài được truyền tụng giỏi chạm khắc kiệu thờ, đồ thờ… là Đậu Bá Hiền và một số người họ Đậu đến lập nghiệp ở Phổ Minh vào khoảng năm 1910.. Hiện nay ở đây còn chỉ họ Đậu Bá vẫn có nhiều thợ giỏi.. Ở Thuần Thiện có nhiều người mà Trần Hữu Phúc là một. Ở Thuần Thiện có nhiều người mà Trần Hữu Phúc là một, ở Tiền Lối có Nguyễn Văn Phương, ở Phù Lưu cũng có một số thợ giỏi nổi tiếng nhất là Bùi Viên, nay còn cháu bốn đời vẫn theo nghề. Được ca ngợi và ham chuộng hơn cả vẫn là các hiệp thợ giỏi ở Mật Thiết (Kim Lộc) và Thanh Lương (Thụ Lộc).
Nghề sơn vẽ thì Nguyễn Duy Bảng ở Kim Chùy có tiếng giỏi sơn đồ thờ và vẽ sơn… Hiện nay còn lại nhiều tượng Phật ở chùa Chân Tiên (Thịnh Lộc) do ông sơn, thiếp…, tiếp nối còn có các tay thợ khác như Nguyễn Đình Dụ, Nguyễn Đình Toái, Nguyễn Duy Hạ, Nguyễn Duy Khanh (nay đều mất).
Nghề bện võng thì có nhiều nơi như ở Kim Chùy, Quần Ngọc, nhưng làm võng dá thì chỉ có ở Vĩnh Hòa. Ở đây người ta làm võng dá đan dệt hình rồng nhuộm xanh, nhuộm điều… dùng cho quan gia và nhà sang trọng. Vĩnh Hòa cũng là nơi làm lọng (lọng giấy và lọng vải) và nghề thau cước là những sản phẩm mỹ nghệ có giá trị.
Ở Mỹ Tường (Ích Hậu) có nghề vắt con giống bằng bột nếp nhuộm ngũ sắc, bán ở các chợ nông thôn, vừa làm đồ chơi vừa làm quà chợ cho trẻ con. Khi được bà hay mẹ mua về chia cho mỗi đứa một thứ, trẻ thường làm đồ chơi, chơi chán thì bỏ vào bếp than nướng ăn. Người ta vắt hình voi, ngựa, trái cây, bình vôi, ấm tích, mũ ni của nhà sư… đủ loại nhưng chỉ gọi chung là vắt voi và kể lại gốc tích nghề này bằng một giai thoại về Hầu thượng Ngật Nguyễn Văn Giai:
Tương truyền, lúc bé cậu Giai rất thông minh và tinh nghịch, có lần cậu lấy bùn vắt một con voi lấy hai cánh bướm làm tai, con đỉa làm vòi và bốn con dam (cua đồng) gắn vào chân. Thế là vòi voi, tai voi vẫn cử động và voi vẫn đi được. Một ông quan đi qua bèn dừng cáng lại xem, biết cậu bé thông minh bèn chỉ vào cây lọng bảo đối, cậu bé liền chỉ vào con dam. Quan khen ngợi vì đối rất hay. Chẳng là quan ra cơn (cây) lọng và muốn nói “Nhất trụ kinh thiên”, một cốt chống trời. Cậu Giai đối con dam (cua) là “Bát túc chỉ địa”, tám chân chỉ xuống đất. Về sau trong làng có một số người học theo cậu bé Giai và sáng tạo ra nghề vắt voi giống. Nhưng chỉ gọi vắt voi để nhớ đến Hầu thượng Ngật(1).
*
* *
Kho tàng văn hóa dân gian bao gồm tri thức dân gian, nghệ thuật dân gian và các lĩnh vực văn hóa dân gian khác, tích lũy trong quá trình lịch sử, mặc dầu đã mất mát nhiều (cả văn hóa vật thể và phi vật thể) nhưng vẫn còn khá phong phú, được nhân dân bảo lưu đến nay. Đây là những chứng tích về trí tuệ, tình cảm của con người vùng đất Thiên Lộc, Can Lộc xưa nay. Nó sẽ được khai thác, học hỏi để góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
______
(1) Giai thoại trên nơi khác cũng kể và gán cho các nhân vật của vùng mình, nhưng không gắn với nghề vắt voi.
MỘT SỐ TÁC PHẨM
VĂN CHƯƠNG DÂN GIAN
PHONG CẢNH THƯỜNG NGA
(Vè phong thổ)
Dạo cảnh chơi xuân,
Đi khắp miền cảnh lộng, tới miền cỏ hoa.
Dạo phong cảnh Thường Nga
Chốn sum vầy đệ nhất.
Ở trong trời đất,
Khéo con tạo lập lường,
Ở trửa đất bình dương,
Mà đột nhiên sơn mọc.
Hươu nhón chân ăn lộc,
Bướm lượn cánh tìm hoa,
Mạch tốn ngọ chảy ra, (1)
Khe hợi càn giao lại (2).
Lòi bề ngang cũng nậy (lớn),
Rú (núi) bề dọc thì dài,
Trước Thanh Lạng vãng lai (3)
Sau Đông Tây cận chí.
Có Thượng Hà cận chí (4)
Tả Thanh long Tổng thị (5)
Hữu Bạch hổ Thông Lưu, (6)
Rú (núi) chẳng thấp chẳng cao,
Cơn (cây) vừa xanh vừa thắm.
Lòi thời xã cấm,
Từ thuở trước lại giừ (bây giờ)
Khi bần phú thương tư (7)
Khi dong lang cho tiện,(8)
Sửa đèn đài cũng tiện.
Sớm nom (nhìn) ra tứ diện,
Thấy sơn thủy canh tân,
Trưa họp lại với dân,
Ngồi cơn (cây) cao bóng mát
Được bóng dài gió mát.
Mưa đông nam chẳng tạt,
Gió tây bắc chẳng lòn,
Hoa đua nở trên cơn (cây),
Cỏ dập dờn bóng đá.
Ngày ngư tiều thong thả,
Tối ca vịnh thâu canh,
Trước binh khỏe đã đành,
Sau dân giàu cũng đáng.
Chữ “Thường”đáng chín lạng,
Chữ “Nga” đáng mười phân,
Cảnh, cảnh sắc giai tân,
Cũng hình như tiên giới.
Đàng (đường) xa bái ngái,
Người “tự viễn phương lai” (9)
Đất đãi khách, chiều tài
Cũng y như bàn thạch.
Giếng tứ thời nước mạch,
Rọng (ruộng) bát tiết không thua (mất)
Ló (lúa) một năm hai mùa,
Khoai tương liên kế tiếp.
Nông làm nên cơ nghiệp,
Sĩ bắt bén khôi nguyên,
Già được chữ “lão yên”,
Trẻ gồm no sĩ tráng,
Dần dà ngày tháng
Được núi ngọn non vàng,
Của sách với Nghiêu, Thang (10)
Dân không lo thủy hạn.
Chim bay đi tìm bạn
Cá ở lại tìm bầy,
Ai tìm đến cảnh này,
Cũng dừng chân nghỉ cánh,
Đất dương cơ đã thịnh,
Chốn sinh thủy hữu tình,
Đất Thường Nga vui thú năm canh (11) .
________
* Thường Nga, đời Lê và đầu đời Nguyễn Là Hằng Nga, trước cách mạng thuộc tổng Lai Thạch, sau hợp nhất với Thông Lưu thành xã Nga Lộc. Tương truyền vùng đất Thường Nga do bà Bạch Ngọc khai phá và lập lên làng xóm từ thời thuộc Minh (1407-1427).
Bài vè trên đây chúng tôi sưu tầm được 3 dị bản: Một là của ông Nguyễn Huy An ở Trường Lưu; một của ông Võ Vinh ở Đức Lạng; một của ông Hợp ở Trung Lễ, cung cấp. Sách “Hát giặm Nghệ Tĩnh” (tập 1, hạ) giới thiệu một bản do cố Thành ở Trường Lưu cung cấp. Các bản đều có nhiều chỗ dị biệt. Chúng tôi dựa theo cả 4 bản hiệu đính lại (TKĐ).
- Tốn ngọ: hướng đông nam
- Hợi càn: Tức là càn hợi, hướng tây bắc
- Thanh Lạng: nay thuộc xã Đức Thanh, Đức Thọ
- Đông Tây và Thượng Hà: Nay là xã Phú Lộc
- Tổng nhị: là chợ Tổng, nay thuộc xã Song Lộc
- Thông Lưu: Nay hợp với Thường Nga thành xã Nga Lộc.
- Bần phú tương tư: Giàu nghèo giúp đỡ nhau.
- Dong (Dung): Tiền dân nộp cho Nhà nước để khỏi phải phu dịch; lang (lương). Tiền gạo phát cho quan lại, lính tráng, phu phen hàng tháng hoặc hàng tuần, hàng ngày.
- Người tư phương xa đến
- Nghiêu: Một ông vua trong truyền thuyết Trung Hoa; Thang: Vua nhà Thương, Trung Quốc – Nhiêu, Thang – chỉ đời thịnh trị
- Năm canh: Ở đây có nghĩa là lâu dài mãi mãi.
VÈ QUAN MAI(1)
(Vè lịch sử)
Thằng giặc họ Hoàng(2)
Chém cha thằng giặc họ Hoàng.
Nó trở ngọn cờ vàng,
Nó đốt phá ngang tàng,
Nói bắt người hiếp tróc.
Con trẻ xâu dọc,
Ông lão thác oan,
Nó kéo từng đoàn,
Nó dày bừa thỏa dạ.
Khắp trong thiên hạ,
Bỏ cấy, bỏ cày
Bỏ nhà cửa, đất dai,
Bồng bế chạy rong rài,
Không quản ngại chông gai,
Biết về đâu yên ổn,
Biết nơi nào yên ổn?
Nhân dân khốn đốn,
Vua chúa cao xa,
Phái quân lính kéo ra,
Trải bao năm đánh dẹp.
Quân Cờ vang có phép,
Đánh dẹp mãi không yên,
Tưởng thời thế đảo điên,
Tưởng nghiêng ngả sơn xuyên,
May Thượng đế còn quyền,
May tạo hóa không quên,
Nhờ một vì quan lớn.
Trong triều đình xộn rộn,
Phái quan lớn họ Mai,
Ngài cầm lấy chiếc bài,
Lo đánh giặc bên ngoài,
Bọn giặc khiếp oai,
Trăm họ đội ơn ngài,
Mà ăn yên ở yên,
Mà ăn yên ở ổn,
Việc biên phòng chưa trọn,
Đức tế độ bao la,
Công đức như hải hà,
Dân coi như mẹ cha,
Trận mạc lúc xông pha,
Ba quân đều phấn khởi .
Mùa thu năm Ất Hợi (1875)
Bắt được tướng Cờ vang,
Bắt thằng giặc họ Hoàng,
Giao quan Tàu Nghị trị.
Mặc quan Tàu Nghị trị.
Quan tàu xử trí,
Đóng cũi giải về Tàu.
Ngài tránh dự công đầu,
Chỉ mưu ngày xếp đặt.
Vang trời dội đất,
Tăm tiếng để muôn đời,
Tưởng hưởng được lộc trời,
Trời không phụ công ngài,
Để đến lúc lão lai,
Để an hưởng tuổi trời,
Để coi cuộc vần xoay,
Cho bõ tài cung kiếm.
Ai ngờ tuổi trời đã đến,
Đã hết hạn về chầu,
Về giữ sổ Nam tào
Để phò ngôi Thượng đế.
Gian sơn nhỏ lệ,
Cây cỏ đau lòng,
Hồn thiêng ở lại thiên cung,
Muôn đời cùng với núi Hồng sông Lam
Ai về Tuyên tỉnh hỏi tham,
Nước Nam xứ Nghệ sơn lâm nghìn trùng(3).
_______
(1) Quang Mai, tức Mai Thế Quý (1822-1877) quê ở xã Phù Lưu nay thuộc xã Hồng Lộc, đỗ Tiến sĩ khoa Quý Sửu (1853) làm đến Tuần phủ Tuyên Quang, sau bị giáng Án sát vì quân giặc khách quấy phá. Ông mất tại lỵ sở.
(2) Hoàng tức là Hoàng Sùng Anh, tướng giặc khách Cờ Vang.
(3) Bài vè do cụ Mai Thường – 75 tuổi, ở chi 2 – dòng họ Mai Phù Lưu Thượng (Hồng Lộc) đọc lại, ông Võ Hồng Huy ghi và cung cấp.
TIỄN BẠN RA TÙ
(Về nhật trình)
Nay vừa “cát-tó Duy-ê) (14-7)
Ba năm mãn hạn, anh về - mừng anh
Đường đời bao nỗi gập ghềnh,
Dầu về dầu ở cảnh tình như nhau.
Đưa chân tiễn một vài câu,
Nhật trình kể hết trước sau dặm trường.
Rạng ngày lác đác cành sương,
Bắt tay từ biệt ra đường lên xe.
Đi qua Thượng Thọ làng kia,
Quày đầu ngó bạn dầm đề châu rơi.
Dọc đường ngoảnh mặt trông xuôi,
Kìa làng Đại Định là nơi đóng đồn.
Nhìn xem phong cảnh mà buồn
Đồng khô nước cạn dân thôn đói nghèo,
Đường đi gặp lúc quanh queo,
Nẻo xa trông thấy người chèo đò ngang.
Đò này thủy bộ tiện đường,
Sao mà nước đục tấc gang hẹp hòi
Qua đò đi được một thôi,
Nguy nga huyện lỵ tới nơi Nam Đàn
Trên xe trông xuống đường quan,
Hai bên phố xá trong ngoài ấm no.
Sa Nam trên chợ, dưới đò,
Đất này vui vẻ khen cho lạ dường.
Từ đây xuống Vịnh một đường,
Nước non đã khỏi địa phương Nam Đàn.
Cầm đường ngày tháng thanh nhãn,
Phủ Hưng nơi đã dần dần tới nơi.
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,
Nhớ năm Canh Ngọ (1930) mười hai tháng này(1) .
Biểu tình hội họp trước đây.
Hai trăm thiệt mạnh vì tay cường quyền!
Thù này dằng dặc sao quên,
Phong trào từ đấy tuyên truyền tiếng vang.
Trên đường xe ngựa nghênh ngang,
Thành cao hào rộng tới trường lao Vinh.
Ra vào biết cảnh, biết tình,
Này ăn, này ở chương trình đúng hơn.
Anh em vô sản hàng ngàn,
Tri tâm, tri diện đã quen biết nhiều,
Ra về nhớ ít tưởng nhiều
Nhớ hôm hội nghị nhớ chiều tập trung.
Trên đường xe ngựa ruổi rong,
Dập dìu thành phố lầu hồng vui thay.
Qua năm cây số bấy chầy,
Gớm ghê tàu thủy, tài bay mọi tàu.
Máy diêm, máy sắt đâu đâu,
Công nhân Bến Thủy dậy đầu là đây (2)
Qua đò trong mấy phút giây,
Đường lên có đá có cây sẵn sàng.
Dưới sông trên núi vẻ vang,
Ngàn thu Hồng Lĩnh, Lam Giang hãy còn.
Đường quan xe chạy bánh tròn.
Qua làng Yên Xứ tới đồn Kiểm lâm.
Khen cho đế quốc mưu thâm,
Đặt ra đồn ải lo chăm lợi quyền
Trông ra “Chế” độ mà phiền (3)
Quyết lòng đánh đổ “Vọt” lên đại đồng (3)
Nguy nga “treo” đó thấy không? (3)
Con đường cách mạng đến cùng mới thơi.
Lòng vừa tin tưởng bồi hồi,
Phút đâu xe đã tới nơi Hạ Vàng.
Năm xưa anh nhớ hay chăng?
Biểu tình hai tổng sắp hàng năm đi.
Kéo vào huyện lỵ một khi.
Yêu cầu thắng lợi tiếng thì tràn lan.
Dậy đầu Hà Tĩnh, huyện Can,
Dần “Dà”(3) rồi đến Đông Bàn, Ba Giang(4)
Thạch Hà nổi dậy ngang tàng,
Ngày năm tháng bảy chỉ đường kéo lên,
Biểu tình đòi lại lợi quyền
Cầm “băng” năm chị giá hiền đã ghê,
Dân “cày” nổi dậy bốn bề
Kéo vào trửa tỉnh phất cờ chỉ huy
Vang lừng tiếng khắp ba kỳ,
Năm xưa thế ấy, năm ni thế nào?
Dừng xe nhớm bước đi vào,
Trước thăm vô sản sau “chào” các quan.
Quày xe trở lại huyện Can,
Cố nhân đã dễ bàng hoàng mấy khi.
Qua đò nhớm bước lên đi,
Giật mình nhớ Nguyễn Hàng Chi mọi ngày
Qua làng Đông Thượng bấy chầy.
Cải Lương trông thấy là hay quê nhà (5).
Hữu tình ta lại nhớ ta.
Con đường tổ chức đi qua đã liền,
Giao thông bí mật, tuyên truyền,
Khi sang Thuần Thiện, khi lên Kim Chùy (6)
Theo đường thiên lý mà đi,
Dưới thì Đỉnh Lự trên thì Phù Lưu (7).
Dừng chân tiễn bạn đồng cừu
Chút lòng thân ái thưở nào quan quên.
Dẫu rằng cuộc thế đảo điên,
Mà ta gan vững chí bền nơi ta.
Tiễn đưa một chén quan hà.
* Bài vè nhật trình trên đây là của ông Thoan tức Trần Hiếu Liêm (1892-1955), người làng Phúc Hải, xã Kim Lộc, một chiến sĩ trong phong trào xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) bị bắt giam ở đồn Rạng. Bài này làm nhân có một người bạn tù quê ở Hậu Lộc được tha trở về quê. Trần Hiếu Liêm là một nhà nho tham gia cách mạng, từng bị bắt, bị giam nhiều nơi và là một người làm thơ ca có tiếng ở Can Lộc, Tài liệu do ông Trần Văn Thoan, giáo viên trường cấp II Lam Kiều cung cấp năm 1974.
(1) Nói về cuộc biểu tình của nhân dân Nghệ An ngày 12-9-1930 ở Thái Lão, Hưng Nguyên.
(2) Từ câu này trở lên, kể về hành trình trên đất Nghệ An. Các địa danh Thượng Thọ, Đại Định, Sa Nam, Vịnh (Vinh), Phủ Hưng (Nguyên) Bến Thủy đều ở Nghệ An.
(3) Tác giả chơi chữ, những chữ trong ngoặc kép là địa danh.
(4) Đông Bàn (Thạch), Ba Giang… là ở Thạch Hà
(5) Đồng Thượng, Cải Lương này là Hậu Lộc
(6) Thuần Thiện nay là xã Phúc Lộc, Kim Chùy nay là xã Tân Lộc
(7) Đỉnh Lự nay là xã Tân Lộc, Phù Lưu nay là xã Hồng Lộc.
SỰ TÍCH NÚI HỒNG LĨNH
(Thần thoại)
Ngày xưa, khi mới có trời đất, ở quang vùng rào Rum(1) núi mọc ngổn ngang, la liệt, làm cản trở việc đi lại. Có mọt ông Khổng lổ, thường gọi là ông Đùng, thân hình cao lớn, vai u thịt bắp, không biết từ đâu tới, thường dắt những hòn núi mọc lộn xộn như vậy lại gần nhau, xếp thành hàng, thành dãy, để mở rộng vùng đồng bằng. Ông đã xếp xong dãy Đại Huệ, dãy Thiên Nhẫn(2)….
Một bà Tiên thấy ổng Đùng có tài, mới thách: Làm sao trong một đêm, trước khi gá gáy, ông có thể dắt được 100 hòn núi từ các nơi về đặt ở phía nam Rào Rum. Ông Đùng nhận lời.
Đêm ấy ông Đùng làm việc cật lực. Đến canh ba, ông đã dắt được 99 ngọn núi về xếp thành một dãy.
Bà Tiên thức dậy ra xem, thấy mình sắp thua cuộc, bèn nghĩ ra một kế đánh lừa ông Đùng. Bà giả làm tiếng gà gáy, làm cho gà trong rừng nghe tiếng, cùng thi nhau gáy ran. Giữa lúc đó, ông Đùng đã dắt một hòn núi về phía bắc rào Rum, chỉ một lát nữa là xếp gọn 100 ngọn núi thành một dãy. Chợt nghe tiếng gà, biết mình đã thua cuộc, ông Đùng bỏ hòn núi kia lại bờ bắc rào Rum, rồi bỏ đi…
Ngọn núi ấy về sau gọi là rú Rum(1), còn dãy núi 99 ngọn ở bờ nam thì được gọi là rú Hồng, tiếng địa phương thường gọi là Ngàn Hống.
Nguyên xưa, núi chưa có tên. Một hôm, có 100 con chim Hồng, một loại chim thần, không rõ từ phương nào bay về đây tìm chỗ đậu. Đàn chim đang dang cánh lượn vòng trên dãy núi, che kín cả bầu trời, rồi sà xuống, mỗi con đậu lên một ngọn núi. Con chim chúa xuống sau cùng, không còn chỗ, bèn đậu lên một hòn đất nhỏ tục gọi cụp Lịp. Nhưng con chim nặng quá. Nó vừa đặt chân xuống thì hòn đất, đổ nhào. Chim chúa chưa kịp dang cánh lấy lại thăng bằng thì nghiênh mình nhúng xuống bể Đông, ướt sũng. Nó bay vút lên không, cất tiếng kêu vang. Cả đàn chim khổng lồ nghe tiếng gọi của chim chúa, cùng vỗ cánh bay đi…
“Chín mươi chín ngọn núi Hồng,
Chín mươi chín con chim độ (đậu) một con vùng ra khơi”
Đàn chim hồng bay đi, nhưng tên của loài chim trở thành tên núi và câu chuyện núi Hồng truyền mãi đến bây giờ (2).
______
(1) Rú Rum tức núi Lam Thành, Núi Thành.
(2) Có người kể vì đàn chim bay đi nên bãi Phôi Phối (Nghi Xuân) không còn là Kinh đô nữa.
SỰ TÍCH CỐ ĐỘ VIỆT THƯỜNG
(Truyền thuyết)
Tục truyền, cha của Long vương là Dương Vương(1) khi mới mở nước, đi xem phong cảnh núi sông, tìm nơi xây dựng kinh đô. Khi về Phương nam đến vùng Ngàn Hống, thấy phong cảnh núi non trùng trùng điệp điệp, 99 ngọn(2) cao tận trời xanh, chân núi vờn gần đến cửa Đơn Hay(3) có thế rồng vây hổ chầu, Dương Vương rất lấy làm vừa ý. Vương bèn quyết định đắp thành lấy nơi làm đô ấp, cứ như ngày nay thì vị trí thành ấy là đất Nội – Tả - Hữu Thiên Lộc, thuộc Châu Hoan(4).
Dựng xong đô ấp, Dương Vương lại cưỡi thuyền thẳng về hướng bắc, tiếp tục đi xem phong cảnh đất nước. Thuyền đang đi, bỗng có một người con gái “tóc dài ngài (người) đẹp, da phấn mặt hoa”, từ dưới nước nổi lên, tự xưng là Thần Long. Sau khi chào hỏi ân cần, vương mời nàng lên thuyền, đôi bên chuyện trò rất ăn ý. Dương Vương đưa nàng Thần Long về đô ấp Ngàn Hống và cưới àm vợ.
Vương lại tiếp tục cuộc tuần thú phương bắc. Đến vùng núi, như ngày này là Sơn Tây, Vương thấy cảnh núi sông thật là hùng vĩ, đặt biệt ngã ba Hạc là nơi thủy bộ thuận lợi, xem ra nhiều chỗ ưu việt hơn đất Hoan Châu. Vương bèn cho xây dựng một đô ấp mới ở vùng Nghĩa Lĩnh, từ ngã ba Hạc đến vùng núi Hy Cương, làm nơi hành tại.
Dương Vương lại lên vùng Hưng Hóa – Tuyên Quang bây giờ, lấy thêm một người con gái họ Mã là nàng Ngọc Vương làm vợ và dựng một cung sở cho nàng ở, cung sở đó xưa là vùng Tiên Cát gần Việt Trì ngày nay.
Vương ở Tiên Cát ít lâu rồi trở về đô ấp Ngàn Hống. Lúc này nàng Thần Long đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa, sinh con trai đầu lòng. Đó là Long Vương, con trưởng Dương Vương, tức là vua Hùng thứ nhất, sau này gọi là Hùng Hiền Vương(1).
Khi Long Vương lớn lên, Dương Vương giao cho ra đô ấp Nghĩa Lĩnh trông coi việc nước ở phía Bắc và thay cha phụng dưỡng bà mẹ thứ Mã Ngọc Nương. Trong thời gian ở kinh thành Nghĩa Lĩnh, nhân một chuyến đi tuần thú, Long Vương gặp nàng Âu Cơ ở vùng Sơn Tây cũ và lấy làm vợ.
Long Vương đưa nàng Âu Cơ về động Hy Cương, còn mình thì ở luôn Phong Châu (gần ngã ba Hạc) làm việc nước.
Về sau Long Vương bỏ kinh đô cũ Ngàn Hống, lấy Phong Châu làm kinhh đô chính, đặt tên nước là Văn Lang, chia làm 15 bộ..
Từ đó cố đô Việt Thường ở Ngàn Hống bị thời gian xóa dần dấu vết.
______
(1) Sử sách thường chép là Lạc Long quân.
ĐÁ VỌNG PHU
(Cổ tích)
Thuở ấy giữa rú Cài và rú Hồng không phải đất liền như này nay mà là biển cả mênh mông, bốn mùa sóng gió. Hai bên bờ biển, ven núi lá lác đác có dăm ba xóm nhỏ, dân cư thưa thớt làm nghề chài lưới, sắn bắn.
Ở một sóm nhỏ bên rú Cài có người con gái rất xinh đẹp. Một ngày kia nhân đi đánh cá, một người con trai bên Ngàn Hống vượt biển sang, tình cờ gặp cô gái rú Cài. Hai bên đem lòng thương yêu nhâu và không rời nhau được nữa. Từ đó theo lời hò hẹn, đêm đêm, khi mặt trời vừa tắt, cô gái lại ra đứng đầu núi, tay cầm bó đuốc giơ cao vẫy gọi người bạn tình. Chàng trai Ngàn Hống cứ hướng theo ngọn đuốc mà bơi sang gặp nàng. Sớm sớm khi những tia sáng đầu tiên lóe lên sau Ngàn Hống, chàng trai lại bơi về bên kia.
Đến một đêm trời mưa to gió lớn, sóng biển dữ dội, nhưng biết chàng không bao giờ lỡ hẹn, nàng lại cầm đuốc ra đứng đợi đầu núi. Thấy ngọn lửa của người thương, chàng trai không ngần ngại, bơi sang. Chẳng may đến giữa vời, chàng kiệt sức và bị sóng cuốn đi, phũ phàng nhận chìm xuống biển.
Cô gái vẫn đứng đó, quên cả mưa ướt, gió lạnh, ngọn đuốc cháy rực trên tay, mắt đăm đăm nhìn ra biển cả mênh mông sóng cuộn. Nàng đứng đó cho đến khi gió lặng sóng yên, cho đến khi những tia sáng phía sau Ngàn Hống lóe lên, vẫn chẳng thấy bóng dáng. Rồi đêm sau nữa, nàng vẫn cầm đuốc ra đứng ở nơi hẹn đầu núi. Mặc dầu biết người thương gặp chuyện chẳng lành, nàng vẫn chờ, vẫn đợi. Nàng vẫn đứng đó, nhìn ra mặt biển, cho đến khi niềm thương nỗi nhớ hút đến tinh lực. Thân nàng hóa đá với ngọn đuốc trên tay, đời đời rực cháy ngọn lửa tình yêu.
Ngày nay, hòn đá Vọng Phu – hiện thân của người con gái rú Cài vẫn sừng sững đứng đầu núi.
________
* Theo tài liệu của ông Nguyễn Khắc Thuần, ghi theo lời kể của ông Nguyễn Khắc Phong xã Thanh Lộc - Rút trong “Cá gáy hóa rồng” SĐD
CHUYỆN BÀ VẠN
(Cổ tích)
Ngày xưa, ở làng Nguyệt Ao(1) có người con gái tên là Vạn, nổi tiếng nết na, tài sắc một vùng. Cô Vạn lấy một trai làng có sức khỏe hơn người và giỏi nghề cung kiếm. Vợ chồng ăn ở hòa thuận, làm lụng chăm chỉ nên trong họ ngoài làng ai cũng quý mến.
Lúc người vợ có thai sắp sinh con đầu lòng thì trong nước gặp hồi loạn lạc. Vâng lệnh triều đình, người chồng phải ra cầm quân dẹp giặc. Trước khi lên đường, anh trao cho vợ thanh gươm và dặn:
- Sau này, nếu sinh con trai thì nhà chịu khó chịu thương nuôi con khôn lớn, dạy nó kiếm cung để theo bước cha dẹp loạn cứu dân, trả nợ nước. Tên con, tôi đã khắc trên chuôi kiếm này.
Người chồng ra đi, ít lâu thì quân giặc tràn đến xây đồn dựng ải trong vùng. Tướng giặc thấy nàng Vạn có nhan sắc, liền ép phải lấy nó làm chồng, nếu không nó sẽ giết chết. Mấy lần nàng toan tự vẫn để trọn lòng chung thủy với chồng. Nhưng nghĩ đến giọt máu của chồng trong bụng, nàng cố cắn răng chịu nhục. Nàng nhận lời lấy tướng giặc nhưng buộc phải đảm bảo vẹn toàn cho cái thai và cho đứa bé sau này, nếu không nàng thà chịu chết. Tướng giặc mê nhan sắc của nàng nên ưng thuận.
Đến ngày mãn nguyệt khai hoa, nàng sinh con trai. Mừng rằng đã bảo toàn được đứa con, nàng Vạn càng nhẫn nhục luôn tìm cách cho tướng giặc vui lòng.
Đứa bé lớn lên, khôi ngô tuấn tú, nên tướng giặc cũng quý mến. Y ra công kèm cặp, truyền dạy võ nghệ cho, và chẳng bao lâu chàng trai đã trở thành viên tướng tài. Tuy nàng Vạn có thêm hai đứa con với tướng giặc nhưng tất cả tình yêu nàng trút vào cả đứa con chồng.
Năm ấy quân triều kéo về trong vùng dẹp giặc. Nhìn cờ hiệu và nghe tiếng đồn, nàng Vạn biết rằng viên tướng của quân triều chính là chồng Mình. Nàng hết sức mừng rỡ vì đã đến lúc công trả nghĩa đền với chồng, nhưng thấy tướng giặc sai con trai sửa soạn ra giao phong với tướng triều thì nàng lại lo sợ, lỡ ra cha con không nhận ra nhau, lầm lẫn giết nhau. Nàng gọi con đến một nơi kín đáo, trao cho thanh gươm cũ và kể hết chuyện xưa mà mười mấy năm trời nằng phải chôn chặt trong lòng. Người con trai nghe nói kinh sợ, xin mẹ bày cho mưu kế. Nàng Vạn suy nghĩ một lúc rồi dặn con trai: “Ngày mai ra trận, đánh nhau vài hiệp, con giả thua, bỏ chạy, cha con ắt đuổi theo, con tháo kiếm này vứt lại phía sau, cha con sẽ nhận ra và sẽ có kế”.
Viên tướng trẻ trở về, đem hết chuyện gặp cha nói cho mẹ hay, rồi đến trước tướng giặc tạ tội, hứa hôm sau sẽ lập công. Tướng giặc vẫn quý mến chàng, vui lòng tha thứ và nói hết với chàng mưu lược đánh lại quân triều.
Hôm sau, khi quân triều tấn công vào trại giặc thì người con trai cũng từ trong đánh thốc ra. Bị nội công ngoại kích, tướng giặc trở tay không kịp, phút chốc đã bị chém đầu. Quân giặc mất chủ tướng, lớp bị giết, lớp bị bắt, còn lại thì bỏ chạy tháo thân.
Giặc tan, người con trai dẫn cha đi tìm mẹ, nhưng tìm mãi vẫn không thấy. Khi vào đến tận hậu đường thì cha con đã thấy nàng Vạn treo cổ tự vẫn. Trong tà áo của nàng còn buộc một phòng thư gửi cho chồng: Thư kể lại đầu đuôi câu chuyện và viết tiếp: “Sở sĩ thiếp chịu khổ nhục sống đến ngày nay là vì giọt máu của chàng. Giờ cha con đã gặp nhau, thiếp đã thỏa nguyện. Riêng thiếp, thiếp không còn mặt mũi nào nhìn lại chồng con….”.
Hai cha con đau đớn, người chồng ôm xác vợ than khóc, càng khóc càng thương tiếc; Người con thì lăn xuống đất vật vã kêu gào thảm thiết. Quân sĩ và dân làng kéo đến ai nấy đều cảm động, nước mắt tuôn trào.
Sau khi chôn cất nàng Vạn, dân làng cảm phục người đàn bà chung thủy, kiên trinh bèn lập miếu thờ nàng bên bờ sông Vô Vi, miếu ấy gọi là đền bà Vạn, nay vẫn còn dấu tích.
_________
* Tài liệu do Nguyễn Khắc Thuần ghi theo lời kể của ông Nguyễn Khắc Ấn, Nguyễn Nghĩa ở xã Kim Lộc và cung cấp, rút trong “Cá gáy hóa rồng” SĐD.
(1) Xưa thuộc huyện La Sơn – nay thuộc huyện Can Lộc
CHUYỆN CỐ BU
(Cổ tích lịch sử)
Vào đời vua Minh Mệnh ở làng Phan Xá có một người dân nghèo tên là Bu.
Lúc mới lọt lòng, dưới gan bàn chân chú bé Bu có ba cái lông trắng, dấu hiệu của tài bơi lặn. Quả nhiên lớn lên, Bu lặn lội rất giỏi, có thể ở hàng giờ dưới nước. Bu lại có sức khỏe hơn người và tinh thông võ nghệ, nhâm cầm độn toán.
Nhà làm nghề đánh cá nhưng sau khi cha mẹ chết, Bu bỏ đi làm thuê, làm mướn kiếm ăn ở nhiều nơi. Do đó Bu kết giao được với rất nhiều bạn hữu. Cho đến tuổi 50 cố Bu đã đi hầu khắp sông, hồ, nghe nhiều, thấy rộng.
Hồi ấy trong nước sưu cao thuế nặng, phu đài tạp dịch luôn canh, dân tình đói khát, khổ sở, khắp miền cơm cao gạo kém, nhưng vua quan thì cứ ngoảnh mặt làm ngơ.
Trước tình thế ấy, cố Bu không thể khoanh tay ngồi nhìn, quyết một phen nổi lên cứu vớt đồng loại. Cố tụ tập bạn hữu trong đám giang hồ, lấy Truông Mây làm đồn trại. Thế rồi mới biết nơi nào dân tình nguy kịch, cố đem thủ hạ đi lấy thóc, lấy tiền của nhà giàu về chia phát cho những người khói khổ. Cố làm rất kín nhẹm và chống vánh, vì không bao giờ gây ra chuyện giết chóc, đốt nhà, mà chỉ đến bắt nhà giàu nộp tiền, thóc rồi đi ngay. Cố đã cứu cho nhiều thôn xóm đang gặp cơn hoạn nạn. Bọn nhà giàu sợ cố mất mật, còn dân nghèo thì lại coi cố như phật, như thần.
Quan quân triều đình lùng bắt cố Bu ráo riết, nhưng chẳng ăn thua gì. Có mấy lần bọn chúng sắp tóm được cố, nhưng lần trước cố lặn xuống sông trốn thoát; các lần sau cố dùng pháp thuật đánh lừa, làm cho chúng không tài nào tìm ra. Người ta kể lại rằng:
Lần ấy, cố bí mật về làng cũ thăm bà con họ mạc, bọn hào lý đánh hơi thấy, cấp tốc lên báo với huyện. Quan huyện sợ khong đủ sức bắt cố Bu, vội vã báo lên tỉnh. Biết cố Bu không phải là người tầm thường, quan tỉnh điểm 200 lính với 2 con voi, 2 tấn lưới sắt hối hả kéo về làng. Vào canh năm, quân gia đã vây bọc trùng trùng điệp điệp bốn phía, tưởng một con chim cũng khó lòng chui lọt ra ngoài. Lúc ấy, cố Bu đang ngủ say, bà con thấy nguy vội vàng đánh thức cố dậy báo tin. Thấy mọi người hoảng hốt, cố khoát tay, bảo – “Cứ bình tĩnh ta đã có cách”.
Cố bảo thủ hạ lấy chiếu cuộn tròn lại như bó thây người chết, cắt hai người khiêng đi, một người cầm bó đuốc đi trước, còn cố Bú thì vác cuốc xuổng theo sau. “Đám ma” cứ thẳng đường tiên đến chỗ quân lính vây bọc. Thấy thế bọn chúng sợ hãi, vội vã tránh ra, nhường lối đi. Ra đến cánh đồng cố Bu cho thủ hạ đi trước, rồi cười to, bảo: “Tao là Bu đây, bọn bay hãy nói với chủ tướng đừng vây bọc mà mất công tốn sức”.
Nghe nói thế, quan quân xua nhau đuổi theo, nhưng cố Bu đã nhảy um xuống sông, lặn một mạch vượt xa mấy dặm. Trong lúc ấy quan quân hò nhau thả lưới sắt chặn một khúc sông, rồi cho 2 con xuống dầm, chẳng hay rằng cố Bu đã đi xa rồi.
Lần sau, cố Bu đi một mình và nghỉ đêm trong làng nọ. Một nhà có giỗ mời cố đến ăn giỗ. Chưa cạn chén rượu thì quan quân đã kéo ập đếnm vây bọc quanh xóm. Chủ nhà đưa cố đến ẩn trong một cái hầm kín. Trước khi xuống hầm, cố Bu múc một bát nước, đặt một chiếc đũa lên miệng bát, để cố niệm chú rồi bước qua. Lần này quan quân có đưa theo thầy bói có tài độn toán. Khi sục sạo các nhà không thấy cố Bu. Chúng bèn hỏi thầy bói. Thầy bấm quẻ rồi trả lời rằng: “Cố Bu đã qua cầu tre trốn thoát rồi”. Quan quân đành hậm hực kéo đi, cố Bu lại đàng hoàng vào uống rượu.
Một lần khác, cố Bu đến một xóm kia phát thóc cho dân. Việc vừa xong thì quân gia đã bủa vây bốn mặt. Cố vào nấp ở một chỗ kín đáo, sai lấy một mảnh chiếu trùm lên người rồi niệm chú. Thế là quan quân lại bị lừa, nghe thầy bói nói cố Bu trốn trong một bụi lác, chúng đổ ra ngoài bãi tìm kiếm, còn cố thì ung dung tránh sang đường khác.
Cố Bu đi hết làng này sang làng khác, khắp cả vùng Thiên Lộc, Hà Hoa… đến đâu cố cũng tìm cách giúp đỡ người nghèo khổ, và ở đâu cố cũng được dân che chở. Quan quân triều đình chẳng làm gì được cố. Về sau, cố đi đâu không ai rõ.
___________
* Theo tài liệu của Nguyễn Đổng Chi (Kho tàn truyện cổ tích Việt Nam) và của Thanh mai – rút trong “Cá gáy hóa rồng” SĐD
- Một làng trong xã Ích Hậu, Can Lộc
- Tên thật là Phan Bô, nổi lên chống triều đình nhà Nguyễn Khoảng năm Giáp Ngọ (1834).
CHƯƠNG II
HỌC HÀNH – KHOA CỬ
Cùng với hạ La Sơn, Thiên Lộc là đất học hành, khoa cử thịnh nhất và sớm nhất ở vùng Nam Hoan – Hà Tĩnh
Đến nay ta chưa được biết những cứ liệu về việc học dưới thời Bắc thuộc và thời kỳ đầu tự chủ. Nhưng đến thời Lý, Trần khi Phật giáo, Lão giáo phát triển mạnh mẽ ở đây thì Nho học cũng được truyền bá rộng rãi. Tuy chưa có ai thì cử đỗ đạt nhưng cũng đã có khá nhiều người, một bộ phận là các vị Thiền sư, thông hiểu thư kinh, thực lục, văn chương, Phật học, Lão học. Đến đời Trần thì việc học đã đến được lớp dân dã. Một số làng xã đã mở trường dạy con em học hành. Tiếc rằng sử sách ghi chép rất sơ sài về việc học mà chỉ viết về các khoa thi mà thôi.
Năm Ất Mão, niên hiệu Thái Ninh thứ 4, vua Lý Nhân Tôn mở khoa thi Minh kinh bác học đầu tiên, thì 200 năm sau khoa Ất Hợi, niên hiệu Bảo Phù thứ 3 đời Trần Thánh Tôn (1275) - ở Bà Hồ, Chi La, lộ Nghệ An (Yên Hồ, La Sơn, Hà Tĩnh) mới có Đào Tiêu đỗ Trạng Nguyên khai khoa. Tiếp đó đất Thiên Lộc có thêm hai ông Trạng họ Sử ở ấp Ngọc Sơn, xã Bình Lãng Thượng (nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh): Sử Hy Nhan (?/1421”) đỗ trạng nguyên khoa Quý Mão (1363) đời Trần Dụ Tôn; Sử Đức Huy (1360-1430) đỗ khoa Tân Dậu (1381) đời Trần Phế đế. Đỗ Thám hoa, đời Trần còn có Đặng Bá Tĩnh ở Đông Rạng – Tả hạ (nay là xã Tùng Lộc, Can Lộc). Nghệ An ký chép: Đặng Tất (cháu nội Đặng Bá Tĩnh) “có tên trong Đăng Khoa lục”. Sách Đại Nam nhất thống chí (Q.13-phần nhân vật) thì chép cụ thể là Đặng Tất” đỗ Thám hoa đời Trần”.
Như vậy, từ cuối đời Trần, vùng Hạ La Sơn – ngoại Thiên Lộc là nơi việc học phát triển và đã có nhiều nhà khoa bảng lớn, có tiếng trong nước.
Đời Lê, Nguyễn, Thiên Lộc (và La Sơn, Nghi Xuân) là đất học nổi tiếng không những ở xứ Nghệ, mà còn ở cả kinh kỳ. Người Thăng Long từng có câu cửa miệng: “Bút Cấm chỉ, sĩ Thiên Lộc” – bút tốt bán ở phố Cấm Chỉ, còn học trò giỏi phải là người Thiên Lộc – “Sĩ Thiên Lộc” là nói về Vũ Toại (Diệm) ở Thổ Vượng, một trong “Tràng An tứ hổ” hồi ấy (gồm: Quỳnh, Tân, Lân, Toại). Lại có một kíp “Tràng An tứ hổ” là Sỹ Bồi, Sỹ Bạt, Quang Hiển, Tất Đạt, thì 3 người là dân Thiên Lộc (Bồi, Đạt, là cháu Tiến sĩ Nguyễn Văn Giai ở Ba Xã, còn Hiển tức là Trần Quang Hiển ở Bạt Trạc). Đời Nguyễn, Thiên Lộc cũng có “tứ hổ” là Lưu Công Đạo, Mai Thế Chuẩn, Phan Quỳ, Lê Hồng Hàn.
Thiên Lộc còn nổi tiếng với nhiều “thần đồng”. Dương Trí Dụng lúc nhỏ rất thông minh, dĩnh ngộ; Nguyễn Văn Giai “5 tuổi” biết chữ, 9 tuổi giỏi làm văn, Hà Tôn Mục cũng vậy, “7 tuổi thuộc kinh Thi, kinh Lễ, 12 tuổi thạo văn chương”; Phan Kính “8 tuổi giỏi thơ, phú”; Lê Hồng Hàn cũng 8 tuổi thay cha làm bài văn “Thúc ước” cho làng.. Vũ Toại 13 tuổi đi hạch ở trấn đỗ đầu…
Đến nay còn truyền lại giai thoại về một “thần đồng” đất Lai Thạch: Nhân kỳ sát hạch học trò ở huyện La Sơn, Quan giáo thụ thấy một cậu bé cũng đeo ống quyển vào trường, lấy làm lạ, bèn hỏi họ tên, quê quán, rồi cười và ứng khẩu đọc;
“La Sơn, Lai Thạch, chú bé nhóc nhách, đeo quyển đi hạch, thảo răng được văn”.
Chú bé tỏ ra không chút sợ sệt, cung kính xin phép đối lại:
“Nghệ An, Đức Quang, ông cống nghênh ngang, dong bước lên đàng, trẩy ra thi hội”.
Lại một giai thoại về cậu học trò Mai Đức Bá ở Lỗi Thạch: Lúc nhỏ tuổi, Mai học rất giỏi, nên tự phụ, kiêu căng vô hạn. Một lần đi hạch, cậu làm bài thuê cho người khác, bị phát hiện, quan trường gọi đến bảo: “Lỗi người tớ chất nên ba thạch”. Câu nói chơi chữ rất hóc hiểm: Ba chữ “thạch” chồng nhau là chữ “lỗi”, “lỗi” là lỗi lầm, lại là tên quê của Mai: “Lỗi Thạch”; “thạch” là chữ trong tên quê Lỗi Thạch, lại là tên gọi một đơn vị đo lường cổ. Mai không tỏ ra lúng túng, đọc ngay: “Tư chú min (ta) xem đáng nửa đồng”. Đây là một câu “chơi chữ” chọi lại câu trên. Chữ “tư” viết như một nửa chữ “đồng”; “min”, tiếng cổ, nghĩa là tôi, ta. Câu trên ý nói: Lỗi của người nặng lắm, cân lên đến ba thạch, tức là 30 đấu (đọi); câu dưới tỏ ý khinh mạnh, hỗn láo: ta xem tư (chất”) của chú chỉ đáng nửa đồng (tiền kẽm). May mà vị quan trường là người khoan dung, biết quý tài năng, nên tha cho không đuổi về….
Ngày xưa, đối với các nhà nho, việc học chỉ có một mục đích: thi đỗ để làm quan, không đỗ hoặc đỗ mà không làm quan thì về làm thầy. Tiến vi quan, thối vi sư” là lý tưởng caonhaats của các cụ(1).
Thiên Lộc – Can Lộc là đất học, tất nhiên cũng là đấ khoa bảng. Chỉ tính trên địa bàn huyện Can Lộc hiện nay, đời Trần mới chỉ có 1 vị đại khoa, thì đời Lê-Mạc, có 27 vị đại khoa (trong đó có Nguyễn Minh Tiệm ở Vĩnh Hòa không thấy chép trong “Đăng khoa lục” mà chỉ ghi trong “Thiên Lộc huyện chí”). Ngoài ra còn có Nguyễn Huy Tự, đỗ tiến triều, được coi ngang tiến sĩ. Đời Nguyễn có 9 vị đại khoa (trong đó có 6 tiến sĩ, 3 phó bảng).
Đỗ hương khoa, đời Lê số hương cống, sinh đồ không ít, nhưng không có sách nào ghi chép đầy đủ. Theo con số sưu tầm hiện nay thì có 69 vị trúng tứ trường (tức hương cống) nghĩa là còn thiếu nhiều người. Riêng làng Tràng Lưu có 19 vị, thì họ Nguyễn Huy chiếm 15. Đời Nguyễn có 22 vị cử nhân, số tú tài khoảng 40-60 người.
Về võ khoa, đời Lê có 3 vị đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ võ) đều là người họ Ngô Trảo Nha, trong đó có Ngô Phúc Túc còn đỗ cả hương khoa văn (Hương cống). Số người đỗ tam trường võ khoa (Lê) và cử nhân võ (Nguyễn) cũng không hiếm.
*
* *
Người xưa gọi ngọn núi gần quê mình là gia sơn – núi nhà. Ngọn Thung Sơn trong dãy Ngàn Hống là gia sơn của Thám hoa – Lại bộ Thượng thư đời Trần, Đặng Bá Tĩnh ở Tả Hạ, người khai khoa ở Thiên Lộc - Can Lộc bây giờ. Con cháu ông nhiều đời vẫn là dòng dõi thi thư. Đặng Đình Dực, con ông, là giám sinh làm tri châu Quỳ Hợp. Đặng Tất, theo nhiều tài liệu, cũng đỗ đại khoa (có sách chép Thám hoa) đời Trần. Bốn người con ông, Đặng Dung, Đặng Doãn, Đặng Thiết, Đặng Điệt Quả đều có tài học, Nhưng gặp lúc quốc biến, cha con ông đều ra làm tướng giúp nhà Hậu Trần…
Về sau, con cháu Đặng Doãn ở chi hộ Mão Phố (Sơn Vi) là các tiến sĩ Đặng Công Thiếp, Đặng Tòng Củ, Đặng Minh Khiêm; con cháu Đặng Thiết ở chi họ Đông Sơn (Lập Thạch) là các tiến sĩ Đặng Công Thận, Đặng Công Điềm; chi họ ở Can Lộc – Thạch Hà, con cháu Đặng Điệt Quả, là tiến sĩ Đặng Đôn Phục, Tổng binh Đặng Ngũ Quế (con rể Tiến sĩ Nguyễn Văn Giai)…
Gần kề họ Đặng Tả Hạ, trên đây, cũng thuộc xã Tùng Lộc bây giờ, có họ Hà, Tỉnh Thạch. Tiên tổ họ này là Cẩn, nguyên Ở Hà Hoa, thủy tổ là Hà Tôn Mục ra ở Cẩn Tiết (Thạch Hà”), đến Thái học sinh đời Trần là Hà Tôn Hiểu mới ra dời ra ở Thiên Lộc. Con trưởng ông là Hà Nho về ở thôn Đồng Lạng (Rạng – Tỉnh Thạch). Con thứ là Hà Công Trình đỗ Nhị giáp tiến sĩ năm Bính Tuất đời Quang Thuận (1466) làm đến Thượng thư bộ Hình. Cháu 7 đời của Hà Công Trình là Hà Tôn Mục đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn đời Lê Chính Hòa (1688), làm Thị lang, khi mất tặng Thượng thư. Về sau con cháu họ này chia thành nhiều chi, lưu tán khắp nơi. Chi họ ở Thanh Hoa ở Hà Tôn Huân, đỗ Bảng nhãn; Chi họ Tiên Điền, huyện Nghi Xuân đời Nguyễn có Cử nhân Hà Văn Giai và Phó bảng Hà Văn Đại; Chi họ Kim Mặc, huyện Cẩm Xuyên có Hà Huy Phẩm, Hà Huy Nhiếp, Hà Huy Tập, (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương); Chi họ Trịnh Xá – Bình Hòa huyện Hương Sơn có giám sinh Hà Huy Quang, Cử nhân Hà Học Hải…
Ngoài hai dòng họ văn học trên đây, ở vùng tây nam Ngàn Hống, Phù Lưu, Ích Hậu cũng là đất có tiếng tăm. Ở đây có Trần Đức Mậu đỗ Nhị giáp Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1472), Phan Đình Tá đỗ Nhị giáp Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499), Nguyễn Văn Giai, dòng dõi một vòng tộc, cũng đỗ Nhị Nháp Tiến sõ khoa Canh Thìn (1580), đời Lê, và Mai Thế Quý cháu Cử nhân Mai Thế Định, đỗ Tam giáp Tiến sĩ khoa Quý Sửu (1853), đời Nguyễn, Phù Lưu còn có các Cử nhân Phan Huân, Phan Xuân Cẩn, Nguyễn Vĩ, Phan Khải Thăng, Trịnh Quang Thái…. Ở Ích Hậu họ Lưu, họ Lê… tuy không có đại khoa, nhưng cũng là họ văn học có tiếng tăm trong vùng với Lưu Thế Thụy đỗ á nguyên, hương khoa (Lê), Lưu Công Đạo đỗ cử nhân (Nguyễn), Lê Trù đỗ giải nguyên, Lê Cảo đỗ á nguyên hương khoa (Lê)…
Ở Nội Thiên Lộc có anh em họ Lê đỗ đồng khoa năm Bính Thìn (1736): Anh là Lê Sỹ Triêm đỗ đồng tiến sĩ, và em là Lê Sỹ Bàng đỗ nhị giáp tiến sĩ. Người đương thời có câu hát:
Thiên hạ thiếu chi người sang,
Đã Lê Sỹ Bàng, lại Lê Sỹ Triêm.
Còn ở Ngoại Thiên Lộc thì đời Nguyễn mới có Trần Khánh Tiến đỗ phó bảng khoa Tân Mùi (1871) và Võ Tuấn đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mão (1879) và cháu ông, Võ Liêm Sơn, đỗ cử nhân khoa Nhâm Tý (1912).
Sách Thiên Lộc huyện chí chép một vĩ Tiến sĩ là Nguyễn Minh Tiệm, vốn người xã Tiên Điền huyện Nghi Xuân dời vào ở làng Vịnh Hòa (nay là xã Bình Lộc); ông đỗ đồng khoa với Nguyễn Văn Giai và Đặng Đôn Phục trong kỳ thi đầu tiên do nhà Lê trung hưng mở ở sách Vạn Lại; Thanh Hoa năm Canh Thìn (1580)….
Ở vùng Thượng Can, “bốn mặt Sạc Sơn đều có công hầu” (Sạc Sơn tứ diện dai công hầu). Phần lớn công hầu là do khoa bảng. “Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh”. Quả vậy, có những con người tài hoa, kiệt hiệt thì ngọn rú Cài 170m cao này mới trở thành cây hoa biểu cho thiên hạ trông vào.
Câu “Kiệt Thạch Tam khoa, tam tiến sĩ” là nói về Hoàng Hiền đỗ khoa Mậu Tuất (1478) làm đến Hiến sát sứ, Nguyễn Cung đỗ Nhị giáp năm Quý Sửu (1493) làm đến Thừa tuyên sứ, và Thái Kính đỗ năm Tân Mùi (1511) làm đến Tả thị lang bộ Hình. Ở nhà văn miếu xã Kiệt Thạch còn tấm bia ghi sự nghiệp của ba vị, gọi là “Bia khoa giáp” (Khoa giáp bi) do Tri phủ Nguyễn Đình Hiển dựng. Văn bia có câu “Phía đông Sạc (Thốc) Sơn, trên bờ Kỳ Thủy, văn chương rỡ ràng, nhân tài lớp lớp”. Đúng vậy, đời Nguyễn ở làng Kỳ Trúc xã Kiệt Thạch còn có một gia đình khoa bảng hiếm thấy: Nhà Cử nhân Nguyễn Liên. Ông có 8 người con trai thì hai người đỗ Tú tài, ba người đỗ cử nhân (Nguyễn Lương Cận, Nguyễn Hữu Lượng, Nguyễn Văn Quỳ) và hai người đỗ đại khoa Tiến sĩ Nguyễn Văn Trình, Phó bảng Nguyễn Quýnh. Ở nhà thờ Cử nhân, Tế tửu Nguyễn Liên, có câu đối:
Phụ hề, tứ hề, vạn cổ anh phong lẫm lẫm.
Huynh dã, đệ dã, nhất đường văn chất bân bân.
Võ Hồng Huy dịch:
Cha này, con này, muôn thuở nếp nhà rạng rỡ.
Anh đó, em đó, một nhà văn nghiệp lẫy lừng.
Cùng “tam khoa, tam tiến sĩ” còn có xã Bàn Thạch với Lê Trực đỗ khoa Quý Dậu (1453) và cha con họ Phan, Phan Viên đỗ khoa Nhâm Tuất (1442), Phan Ứng Toản đỗ khoa Tân Sửu (1481).
Nội Thiên Lộc có anh em họ Lê, Bàn Thạch có cha con họ Phan, thì Yên Huy – Bạt Trạc có ông cháu họ Dương, tiếng tăm lừng lẫy một thời. Tổ tiên là Dương Phúc Minh vốn người xã Hoa Viên (Nghệ An) về ở gần Rú Cài, sinh ba con trai đều đỗ tứ trường (Hương Cống). Người con út về kinh thi hội không đỗ, phẫn chí không trở về quê, ở lại Sơn Nam dạy học và mất tại đó. Vợ ở nhà sinh ra Dương Trí Dụng, thông minh, mẫn tiệp, đỗ Nhất giáp chế khoa Ất Sửu (1565). Con trai Trí Dụng là Trí Thân thi hương đỗ tứ trường, và con Dương Trí Thân thi hương đỗ tứ trường, và con Dương Trí Thân là Dương Trí Trạch đỗ đồng Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1619).
Họ Nguyễn Nguyệt Ao dòng dõi của Nhị Giáp chế khoa Nguyễn Bật Lãng ở Cương Gián, có Nguyễn Hành đỗ Tiến sĩ khoa Quý Sửu (1733) và hai người đỗ Hương cống (Nguyễn Hiên Phát, Nguyễn Thiếp) cùng 21 người đỗ Sinh đồ (Tú tài).
Ở Lỗi Thạch có ông Hoàng giáp (Nhị giáp Tiến sĩ) Mai Đức Bá (đỗ năm Nhâm Tuất 1502) từng nổi tiếng thông minh và tự phụ, vào trường làm bài thuê bị bắt quả tang, còn làm vế đối mỉa quan trường! Ở Thổ Vượng lại có ông Hoàng giáp Võ Toại sau đổi là Võ Viêm (Diệm), con trai giải nguyên Võ Văn Tuyển, cũng nổi tiếng thông minh, 13 tuổi đã đỗ đầu cuộc khảo hạch ở xứ, rồi cũng bị phát giác vì làm bài thuê cho người khác. Nhưng không may mắn gặp ông quan trường liên tài, rộng lượng như trường hợp ông Bá, ông Toại bị triều đình tư giấy về làng khiển trách và cấm không được đi thi. Về sau, ra học ở Thăng Long nổi tiếng tài hoa, được xếp và “Tứ hổ”. Chúa Trịnh nghe tiếng mới xóa cho tội cũ, nhờ vậy ông thi hương đỗ giải nguyên (1729) lại đỗ đầu khoa Hành từ (1732). Năm Kỷ Mùi (1739) thi hội ông được xếp thứ 2 vào thi đình, tính điểm được quan trường tâu lên vua xin cho đỗ “Nhất giáp nhị danh” (Bảng nhãn). Nhưng khi vua cầm bút ngự phê thì ghi nhầm là “Nhị giáp Nhất danh” (Hoàng giáp). Ai cũng lấy làm tiếc cho ông. Sau đó chắc để “sửa sai”, nhà vua ban cho ông được dự các buổi chầu, nghĩa là công nhận vào hàng quan chính thức tại triều.
Đất Lai Thạch có 4 vị khoa đời Lên, trong đó có 2 Thám hoa, Phan Kính và Nguyễn Huy Oánh. Nhưng người khai khoa là Tiến sĩ Nguyễn Tâm Hoằng đỗ năm Mậu Tuất (1478), và người cuối cùng là Nguyễn Huy Quýnh em trai Nguyễn Huy Oánh, đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1782) (xem phụ lục về “họ Nguyễn Tràng Lưu”).
Đất Trảo Nha cũng có 4 vị đại khoa, Người khai khoa là Tiến sĩ Nguyễn Bật, đỗ khoa Canh Thìn (1520). Ông là cháu nội của một quan võ, Đỗ úy Nguyễn Cao Đăng (Cao Đăng là tên tự) quê gốc Thanh Hoa vào đây. Ba vị khác đều là người họ Ngô; Ngô Phúc Lâm đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766) đời Lê, Ngô Đức Bình đỗ Nhị Giáp Nhã sỹ năm Ất Sửu (1865) và Ngô Đức Kế đỗ tam giáp Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1901). (Xem phần phụ lục “họ Ngô Trảo Nha”).
Đời Nguyễn, quê Can Lộc, còn có một số vị đại khoa khác: Tiến sĩ Trần Nguyên Hy ở Dục Vật đỗ khoa Mẫu Thân (1848); phó bảng Nguyễn Xuân Đàm ở làng Quần Ngọc, đỗ khoa Kỷ Mùi (1919).
*
* *
Các nhà nho xưa, qua “thập niên đăng hỏa”, dốc lòng “nấu sử xôi kinh” là cốt để thi đỗ, làm quan.
Hầu hết các nhà khoa bảng ở Can Lộc (cũng như ở nơi khác) từ Tiến sĩ đến Cử nhân đều ra làm quan.
Các vị đại khoa và một số vị hương khoa (Hương cống, Cử nhân) đều giữ chức cao trong triều, ngoài quận: Thượng thư, Đô ngự sử v.v.. và Đốc đồng, Thừa tuyên sứ, Hiến sát sứ, Tham Nghị, Ngự sử, Tuần vũ, Án sát…. Một số người khi mất, hoặc khi trí sĩ còn được tặng Thượng Thư (Dương Trí Dụng, Hà Tôn Mục, Nguyễn Văn Trình). Nhiều người có công được phong tước đến Công, Hầu (Lê Trực, Dương Trí, Dụng, Nguyễn Văn Giai, Dương Trí Trạch (Quận công), Phan Đình Tá, Dương Trí Thân, Nguyễn Minh Tiệm (Hầu). Một vài vị đại khoa và hầu hết các vị hương khoa giữ cương vị tể phụ triều đình (như Phan Đình Tá, Nguyễn Văn Giai, Dương Trí Trạch), hoặc nổi tiếng vì tài đức, hay có công lao được triều đình trọng vọng.
Phan Đình Tá người xã Phù Lưu, làm Thừa chính sứ Nghệ An khoảng 1522-1527, Thăng Thượng thư bộ Lại. Sử chép: “năm Thống nguyên thứ 6 đời Lê Cung hoàng, vua sai ông đem cờ tiết mao, đại ngọc, kiệu tía, quạt và tàn tía đến xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương tấn phong Mạc Đăng Dung làm An hưng vương và ban cho các đồ vật như xe ngựa, quần áo, nhạc khí… Ông làm đến Lại bộ Thượng thư, tước Lan xuyên bá, thảo chiếu nhường ngôi cho nhà Mạc. Ông bỏ Lê phò Mạc giữ chức Thượng thư, tước Lan xuyên hầu quyền uy rất lớn thường tự coi là “Lưỡng triều Tể tướng”. Nhưng do quan niệm chính thống, các nhà nho gọi ông là “mại quốc Thượng thư”. Có lẽ vì vậy mà ông xin từ quan về quê, nhưng dư luận không buông tha ông. Ngọn núi ở quê ông cũng bị đổi tên là “Mại quốc sơn”!
Nguyễn Văn Giai lại là người tuyệt đối trung thành và có công lớn với triều Lê - Trịnh, cũng người Phù Lưu, được phong đến Lại bộ Thượng Thư, chưởng lục bộ sự, tước Lệ quận công (xem phần phụ lục).
Dương Trí Trạch là cháu nội Binh bộ Thị lang (khi mất tặng đến Công bộ Thượng thư, Thái bảo lâm quận công) Dương Trí Dụng, và là con trai Thái bộc tự khanh Tả thị lang, Thái bảo, Nham Thạch hầu Dương Trí Thần. Ông đỗ Tiến sĩ, có công đánh nhà Mạc và dẹp bọn Trịnh Xuân lại có công đi sứ, được thăng Dực vận tán tán trị công thần, Binh bộ Thượng thư, tước Bạt quận công. Sau ông lại có trù tính dẹp bọn Trịnh Trượng, Trịnh Hoa và dụ dân Nghệ An chống lại tướng Nguyễn Chiêu Võ hầu, làm cho quân Đàng Trong phải rút lui, được thăng Hộ bộ Thượng thư, Thiếu bảo, rồi Thăng đến Lại bộ Thượng Thư, Quốc lão Thái Bảo trí sĩ. Nhà Lê ban câu đối:
Tứ thập niên lập triều, triều đình ý trọng;
Thất thập tuế trí sĩ, sĩ hoạn thành danh.
Nghĩa:
Bốn chục năm ở triều, triều đình tin trọng;
Bảy chục tuổi về nghỉ, sĩ hoạn thành danh.
Sau khi mất, ông được tặng Thái tể rồi phong Nguy công đại vương.
Hà Tôn Mục: ở Tỉnh Thạch, đỗ Tiến sĩ làm Hình bộ thị lang, nhập thị bồi tụng. Sau khi thi đỗ, ông làm Trực học sĩ Hàn lâm viện, dạy học nhiều người đỗ đạt cao. Những năm Tân Mùi (1691), Nhâm Thân (1692), ông vâng mệnh ra trấn yên vùng biên giới. Năm Quý Dậu (1693) dự kỳ thi khảo sát các quan, ông được xếp thứ hai, nên được giao việc thảo văn thư từ mệnh, kiêm chức Nhập nội tán trị thủy sư… Năm Quý Mùi (1703) ông được cử đi sứ nhà Thanh, được người Thanh kính trọng, lấy lễ tiếp hậu hơn lễ thường, và được vua Thanh ban cho tấm biển “Nhược xung hiên” (Ý khen là trung thuận khiêm tốn). Tấm biển ấy nay vẫn còn ở nhà thờ. Đi sứ trở về, ông mất tại chức, được truy tặng chức Thượng thư Bộ công…
Ở quê ông, ngoài ngôi nhà thờ, còn có đàn thờ gọi là “Sùng chỉ” trên một khui đất cao ráo rộng rãi, cây cối bao quanh. Đàn gồm một bàn đá, hai lư hương, hai con nghê chầu hai bên, bên tả còn có một con voi, tất cả đều bằng đá, chạm trổ tinh xảo, lại có một tấm bia nhỏ và một tấm bia lớn gọi là bia “sùng chỉ”. Tương truyền đó đều là di vật của ông.
Võ Toại (tức Võ Diệm) người xã Thổ Vượng, đỗ Hoàng Giáp làm Đốc đồng, có công dẹp giặc núi, thăng đến chức Hàn lâm thị thư, khi mât được tặng Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Đại lý tự khanh, tước Hồng Lĩnh bá, triều đình ban câu đối khắc ở nhà thờ:
Tam khoa thú cử, khai tiền lộ,
Nhị giáp cao đề, khải hậu tri.
Nghĩa:
Ba khoa đỗ đầu, mở đường đi trước
Đỗ bậc nhị giáp, làm gương cho lớp sau:
Ông là con rể Thượng thư Hồ Sỹ Dương. Bà vợ ông không có con trai, ở vậy thủ tiết, nên triều đình cho người em họ của ông là Tri huyện Võ Kỳ làm con…
Phan Huân (1814-1864) người xã Phù Lưu Thượng đỗ Cử nhân khoa Quý Mão (1843) đời Thiệu Trị, khi làm Tri huyện Chương Đức, gặp năm mất mùa có hai xã bị nạn đói gay gắt, triều đình vẫn bắt nộp thuế, ông nhiều lần bẩm báo vẫn không được, bèn thân hành vào Huế kêu xin cho dân, được việc mới thôi. Lúc làm Giám sát ngự sử, một chức quan ở tỉnh, nghe tin triều đình ký hòa ước dâng 3 tỉnh Nam kỳ cho Pháp, ông đã dâng sớ đàn hặc. Lá sớ có câu (dịch) “Thiên hạ (đất nước) là của cả thiên hạ (nhân dân) không phải là thiên hạ (đất nước) là của nhà vua mà nhà vua một mình được chuyên quyền!” và “Trước xin chém Phan Thanh Giản trước trận để giữ nghiêm quân lệnh, sau xin đuổi Trương Đăng Quế về nhà để ngăn chặn mưu gian”. Vì việc này, Phan Huân bị gọi về kinh “hậu cứu”, sung giúp việc đê điều, rồi bị cách chức đuổi về quê và mất. Năm năm sau, một con đê ở Quảng Trạch bị vỡ, người ta đổi lỗi cho ông, và bắt bồi thường. Dân trong xã đã họp nhau lại kẻ ít, người nhiều góp lượm giúp, gia đình ông mới thoát nạn… Nhưng đến nay, lá sớ đầy tinh thần yêu nước và trách nhiệm của ông vẫn có giá trị thực hiện.
Mai Thế Quý (1882-1877) cũng là người Phù Lưu Thượng, được sĩ phu trong tỉnh coi là bậc “quốc khi – nhân hào”. Ông là cháu nội Hương Cống mai Thế Định Người Phù Lệ, chống Nguyễn Khoa thi hương đầu tên ông đã đỗ Cử nhân nhưng lại bị phát giang là không khai đủ lý lịch “tam đại”, nên bị xóa tên và cấm suốt đời không được đi thi. May nhờ có người giúp đỡ, 6 năm sau, ông được xóa ấn, thi lại trúng cử nhân, rồi thi hội đỗ tiến sĩ. Suốt 24 năm làm quan thì 13 năm ông phải trấn trị ở vùng biên giới Lạng Sơn, Quảng Yên, Tuyên Quang với chức Tuần vũ. Suốt 10 năm ông phải đi đánh thổ phỉ, mạnh nhất là bọn giặc khách Cờ vàng do Hoàng Sùng Anh cầm đầu, và lang đạo Nông Hùng Thạch. Trong trận đánh Hà Dương ông thua và bị thương khá nặng, phải chạy sang Quan Hóa bên kia biên giới chữa trị rồi mới trở về… Nhưng rồi ông cũng dẹp yên được vùng biên giới nên hồi ấy có câu: “Mai tồn Tuyên tại” (còn Mai Thế Quý thì còn Tuyên Quang). Trong suốt đời làm quan ông bị giáng phạt 11 lần và được khen thưởng 9 lần. Cuối cùng, khi bị giáng từ Tuần phủ xuống Án sá thì ông mất vì bệnh sốt sét rừng tại lỵ sở Tuyên Quang… Khi người ta rước quan tài ông về qua Hà Nội, quan thân ở đây đã làm lễ tế “trung đô” và có câu thơ điếu:
Nhất đại văn chương, thùy tán thưởng,
Thập niên binh cách, tối gian tân.
(Một đời văn chương không ái không khen ngợi.
Mười năm binh lửa, riêng ông chịu gian khổ, đắng cay).
Một số người thi đỗ nhưng không muốn ra làm quan, thì, hoặc đi ẩn dật như các Hương cống Nguyễn Thiếp (xem phần phụ lục), Trần Quang Hiển, Hoàng Dật, hoặc bước vào con đường đấu tranh cứu nước, như Tiến sĩ Ngô Đức Kế (xem phần phụ lục).
Trần Quang Hiển ở Bạt Trạc là giám sinh, học ở Thăng Long được xếp vào “Tràng An tứ hổ”. Ông thi đỗ tứ trường (Hương cống) rồi về quê ở ẩn, giúp dân đào khe tưới ruộng và dạy học, được dân làng quý mến và biết ơn. Khi ông mất, dân làng lập miếu thờ.
Hoàng Dật vốn dòng dõi tiến sĩ Hoàng Trừng ở Bình Thọ, La Sơn, đỗ tứ trường, làm Tri huyện Thanh Chương. Đi thi hội không đỗ, ông bỏ quan vào lập trại ở Canh Sơn làng Bảo Khê huyện Thiên Lộc, cày ruộng và dạy học. Trước sau có hàng trăm người theo học, nhiều người thành đạt. La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp khi qua trại của ông ở Gia Hanh (tức Bào Khê cũ, về sau là Trùng Hanh), làm bài thơ có câu, giáo sư Hoàng Xuân Hãn dịch:
Xe hạc từ khi lại đế hương,
Núi xưa tùng cúc ngó thê lương.
Họa chăng kẻ khuất hay lòng thắm,
Chỉ có dân đây nhắc họ Hoàng…
Nói đến người làm quan, tưởng cũng nên biết đến một số võ thần, võ tướng. Trước tiên là hai dòng họ nổi tiếng là Họ Đặng (Tả thượng - Tùng Lộc) và họ Ngô (Trảo Nha - Đại Lộc) mà ở phần phụ lục dưới đây sẽ nói rõ.
Ở Trảo Nha còn có họ Lê là dòng dõi Tư quốc công ở Lam Sơn - Thanh Hóa vào quản lý đội đồng Thượng Trụ của ngoại tổ Triều quốc công, sau lên ở Nga Khê. Đến Lê Thế Tuấn có công đánh nhà Mạc, được phong Thượng tướng quân, đô đốc kiêm quận công. Ở hai làng Bình Nguyên, Lộc Nguyên (An Lộc) có Tham đốc Phương Quận công Nguyễn Quang Nhã và Hoài viễn tướng quân kiêu kỵ úy đồng tổng tri Nguyễn Trọng Đoài. Ở Canh Hoạch (nay thuộc Thụ Lộc) có Lê Khắc Khoan cũng có công đánh nhà Mạc, được phong làm Kỳ quận công… Còn ở Mật thôn (nay thuộc Kim Lộc) có Tổng thái giám Trần Tịnh được phong Văn lý hầu, về sau cũng được phong tước Liêm quận công… Nhiều người khác cũng được phong hầu, trong đó có anh em Phú nham hầu, Cường Nghĩa hầu ở Nội Thiên Lộc (Phúc Lộc), Trung thọ hầu Trần Phúc Tuy ở Ngoại Thiên Lộc (Thiên Lộc), Đô chỉ huy sứ Nguyễn Viết Phúc ở Thượng Lối (Quang Lộc)…
*
* *
Sau khoa hương năm Mậu Ngọ (1918) và khoa hội năm Kỷ vị (1919) đầu đời Khải Định, các khoa thi chữ Hán bị bãi bỏ. Tuy nhiên, cho đến trước cách mạng tháng 8-12945, chữ Hán vẫn chưa bị loại khỏi đời sống xã hội. Các văn kiện của Nam Triều, sắc chỉ, thư trát, khế tự… cho đến các bộ quốc sử, các bộ điển lệ đều viết bằng chữ Hán. Vào thời kỳ cuối, chữ Quốc ngữ mới thay thế dần từng phần. Ở các trường công, từ tiểu học đến cao đẳng tiểu học đều có chương trình, có giáo viên dạy chữ Hán. Có nhiều tờ báo ở Hà Nội, Huế và tờ báo địa phương Thanh - Nghệ - Tĩnh tân văn hàng tuần cũng có tờ phụ trương chữ Hán… Ở nông thôn, các nhà nho mặc dầu phần đông đã biết chữ quốc ngữ, một số người còn học cả chữ Pháp, nhưng vẫn coi trọng chữ Hán, cho là “chữ của Thánh Hiền” không thể bỏ được. Ở hầu hết làng xã đều có một vài lớp (gọi là trường) dạy chữ Hán của các thầy nho, thầy đồ. Nhiều thầy còn tổ chức các cuộc tập bài, trung tập, tiểu tập theo lối cũ. Thơ, phú, văn tế… vẫn viết bằng chữ Hán, chữ Nôm; các văn thư, sổ sách của tổng lý cũng vậy. Việc kinh kệ ở chùa, tế lễ ở đền miếu, nhà thờ họ, và gia đình cũng không thể bỏ chữ Hán và thể thức cổ. Thầy thuốc, thầy cúng, thầy địa… càng không thể không biết, không dùng chữ Hán. Còn nhân dân nhất là nông thôn ai cũng muốn con cái mình biết dăm ba chữ để viết, đọc được văn khế khỏi bị người ta lừa dối, nhất là để ngày giỗ, ngày tết khấn ông bà, tổ tiên…
Vì vậy mà sau nửa thế kỷ đô hộ của Pháp, tân học được khuyến khích, mở mang mà chữ Hán chưa mất hẳn vai trò trong đời sống. Ngày lớp tân học - tây học cũng có nhiều người biết chữ Hán, có những người như Giáo sư Nguyễn Đổng Chi, thi sĩ Xuân Diệu… rất thông, giỏi Hán học. Đó là một trong những ưu thế của các ông trong việc nghiên cứu văn hóa, văn học Việt Nam và Phương Đông.
Nhưng nửa đầu thế kỷ XX là thời kỳ suy tàn của Hán học, của chữ Hán, và từ sau cách mạng tháng 8-1945 đến nay thì ngoài một số học giả, nhân dân ta không còn ai chú ý đến nữa…
Cũng từ đầu thế kỷ XX ở Can Lộc (và các nơi khác), chữ quốc ngữ được chính quyền tổ chức, hỗ trợ và các nhà duy tân cổ động, truyền bá, nên phát triển khá nhanh chóng. Nền giáo dục mới được xây dựng. Riêng ở Hà Tĩnh chính quyền Pháp đã chi cho giáo dục 70% ngân sách của Nam triều và 30% ngân sách chung của tỉnh. Thế nhưng cũng chẳng thấm vào đâu.
Năm học 1920-1921 cả tỉnh chỉ mới có một trường bị thể, tức trường tiểu học đầy đủ, mỗi huyện có một trường sơ đẳng và dăm bảy trưởng liên hương với 1.600 học sinh, và 409 người đỗ tiểu học Pháp - Việt.
Ở Can Lộc năm học 1929-1930 có 14 trường công; trường tiểu học Pháp - Việt Can Lộc (đặt ở xã Trảo Nha) và các trường liên hương Đoài Lỗi (ở thôn Thượng Lối), Nội Hữu (ở xã Hữu Can Lộc), Thuần Thiện (ở thôn Thuần Thiện), Phù Kim (ở thôn Ích Hậu), Khiêm Ích (ở thôn Khiêm Ích), Nga Đông (ở thôn Đông Sơn), Đông Huề (ở thôn Đồng Huề), Đỗ Nham (ở thôn Nham Xá, nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh), Lai Thạch (ở xã Lai Thạch), Thường Nga (ở thôn Thường Nga), Phúc Hải (ở thôn Phúc Hải), Phù Thượng (ở xã Phù Lưu Thượng), Trung Ngọc (ở thôn Vân Chàng, nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh).
Các trường liên hương đều là trường sơ đẳng, nhưng nhiều trường chỉ có các lớp đồng ấu và lớp dự bị (tức lớp 5, lớp 4) mà thôi.
Khoảng những năm 1939-1940 các trường liên hương đổi thành trường tổng và có đến lớp sơ đẳng (lớp 3); trường Nga Khê, trường Độ Liêu, trường Phù Kim, trường Ốc Khê, trường Đoài Tổng, trường Lai Thạch, trường Phù Lưu.
Niên khóa 1941-1942 ở Can Lộc có:
- 1 trường tiểu học công : 5 giáo viên, 186 học sinh
- 7 trường sơ học liên hương (tổng): 15 giáo viên, 285 học sinh
- 1 trường sơ học tư: 1 giáo viên, 60 học sinh
- 16 lớp học tư: 16 giáo viên, 285 học sinh
Cộng: 37 giáo viên 1.025 học sinh
Đó là số trường lớp và học sinh cao nhất suốt thời thuộc Pháp. Số dân trong huyện (theo thống kê của tòa công sứ Pháp ở Hà Tĩnh) lúc ấy là 58.906 người. Như vậy, cứ 58 người dân mới có một học sinh.
Hầu hết trẻ em nông thôn đều không được đi học, hoặc chỉ được học đến lớp sơ đẳng. Số rất ít con nhà khá giả mới học lên tiểu học được. Số học lên cao đẳng tiểu học và trung học lại càng hiếm, hầu như chỉ có còn nhà giàu hoặc quan lại, công chức thoát ly địa phương. Trong hơn 40 năm cả huyện chỉ có khoảng trên 60 người học hết bậc cao đẳng tiểu học (thành chung), chưa đủ chục người học đến trung học (tú tài) và chỉ một người tốt nghiệp y sĩ Đông Dương (cao đẳng).
Thời Hán học cũng như thời Tây học, đại đa số nhân dân đều không biết chữ. Chính quyền phong kiến, thực dân tuy cũng khuyến khích việc học, nhưng chỉ chủ trương đào tạo quan lại, viên chức cho bộ máy nhà nước, chứ không quan tâm đến việc mở mang dân trí, hơn nữa cũng không đủ sức tổ chức cho toàn dân được học hành.
Dười triều Lê – Nguyễn ở xứ (sau là trấn, tỉnh) chỉ có một trường học chủ yếu là để đào tạo học trò đi thi hương, và một học quan (Đốc học) vừa coi việc học trong xứ (trấn, tỉnh) vừa giảng dạy ở trường (trường không dạy hàng ngày mà mỗi tháng chỉ mở vài ba kỳ “trung tập”, “đại tập”, năm có khoa thi thì tổ chức sát hạch để chọn thí sinh). Ở phủ, huyện đều có trường học, còn ở xã, thôn chỉ có trường do các nhà khoa bảng về làng hoặc các nhà nho mở ra dạy học trò trong địa phương. Đời Lê, mỗi phủ chỉ có 2 học quan là huấn đạo (hàm chánh cửu phẩm) coi việc học và việc dạy ở trường phủ, huyện. Đời Nguyễn thì ở phủ có giáo thụ (hàm chánh thất phẩm, ở huyện có huấn đạo (hàm chánh bát phẩm) coi việc học và dạy ở các trường phủ huyện, dưới quyền của đốc học (hàm chánh lục phẩm) ở tỉnh.
Trường học huyện Can Lộc đời Minh Mệnh đặt ở thôn Thuần Chân (nay là xã Thuần Thiện - Phúc Lộc). Năm Thiệu trị thứ 5 (1845) dời đến xã Cao Xá (nay là xã Độ Liêu); đến năm Tự Đức thứ 4 (1851) lại dời về phía Tây huyện lỵ ở xã Ngoại Can Lộc (nay là xã Thiên Lộc). Sau khi huyện dời về Thổ Vượng, rồi Khiêm Ích… không có tài liệu nào chép việc trường học có dời hay không… Dưới quyền tri huyện và đốc học tỉnh, có một huấn đạo coi việc học và dạy học ở trường huyện.
Khi Hán học bị bãi bỏ (1920) thì trường huyện và chức Huấn đạo không còn. Việc học đặt dưới quyền của Thánh tra học chính của chính quyền bảo hộ Pháp. Năm 1933, sau khi vua Bảo đại về nước lập Nội các mới, Pháp đồng ý để Nam triều quản lý bậc tiểu học trở xuống và cho lập bộ Quốc dân giáo dục, thì ở Can Lộc cũng như các huyện khác, lại đặt chức Huấn đạo để coi việc học, thanh tra các trường liên hương (sau là trường tổng) cho đến cách mạng tháng 8-1945.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập, để bảo vệ nền độc lập của Tổ Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra và kêu gọi toàn dân thực hiện ba nhiệm vụ lớn: Chống giặc đói, chống giặc tốt và chống giặc ngoại xâm.
Chính quyền Cách mạng hết sức chú trọng đến việc học, đặc biệt là chống nạn mù chữ. Sáu ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ (8-9-1945) và đặt Ty bình dân học vụ ở tỉnh song song với Ty giáo dục. Trong Ủy ban nhân dân các cấp từ tỉnh đến xã đều có một ủy viên giáo dục và ở huyện, xã còn có Ban bình dân học vụ giúp ủy viên giáo dục tổ chức, vận động phong trào xóa nạn mù chữ.
Ủy viên giáo dục đầu tiên trong Ủy Ban nhân dân Can Lộc là Phan Tử Quý (quê ở Kim Lộc) người có đóng góp quan trọng xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục trong nước phôi phai, nhất là với ngành bình dân học vụ.
Cùng với cả nước, cả tỉnh, ở Can Lộc đã dấy lên một phong trào “Người biết chữ dạy người chưa biết chữ”. Trong 3 năm 1946-1948 khắp các thôn xóm trong 27 xã đã mở hàng nghìn lớp học. Ngót 2 vạn người già, trẻ, trai, gái nô nức đi học. Vạn Xuân (nay là Xuân Lộc) là xã đầu tiên trong huyện, thứ hai trong tỉnh, được công nhận thanh toán nạn mù chữ. Các xã khác như Tây Sơn (Yên Lộc), Bắc Kinh (Hậu Lộc)… đều đạt thành tích cao.
Các giáo viên Bùi Bá Kiêm, Võ Tá Vinh, Trần Quang Tiến (quê ở Thạch Hà), Nguyễn Liễu, Tống Nguyên Quang (quê Đức Thọ), Đậu Xuân Trí (Nga Lộc)… cùng hàng trăm người dạy, hàng nghìn người học, đã nỗ lực để Can Lộc hoàn thành xóa nạn mù chữ năm 1949.
Tiếp đó, toàn huyện lại tổ chức hệ thống trường, lớp bổ túc văn hóa với yêu cầu chủ yếu là: Bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho cán bộ, và đảng viên, đoàn viên thanh niên.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp, hòa bình lập lại (1954) nạn “tái mùa chữ” lan rộng, ảnh hưởng lớn đến việc phát triển kinh tế, xã hội. Ngành bổ túc văn hóa lại phải giải quyết tình trạng này, bằng việc tổ chức những “Hè diệt dốt” với sự tham gia của cả lực lượng giáo viên phổ thông. Lại 4 năm liền, các làng, xã mở các lớp “xóa mù”, lớp bổ túc văn hóa cho cán bộ và nhân dân. Năm 1958 Can Lộc lại được công nhận xóa nạn mù chữ lần thứ hai.
Trong 10 năm chống Mỹ cứu nước dưới bom đạn, ngành bổ túc văn hóa cần phát triển mạnh mẽ và quy củ với các trường lớp cả 3 cấp cấp I, II, III. Trong huyện nổi lên những đơn vị tiên tiến về bổ túc văn hóa như Bắc Kinh (Hậu Lộc), Cồn Phượng (Đại Lộc), về phổ cập cấp I, bổ túc văn hóa như Minh Lộc, Yên Lộc, và trường bổ túc văn hóa tập trung của huyện…
Ngành vỡ lòng – mẫu giáo cũng được bắt đầu xây dựng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đến năm 1954, toàn huyện đã có 56 lớp võ lòng bình quân mỗi xã có 2 hoặc 3 lớp, với khoảng 2.000 em học sinh. Mười năm sau, trên cơ sở các lớp ở làng xóm, đã hình thành hệ thống trường mẫu giáo ở cơ sở. Đến năm 1964 tất cả 32 xã đã có 32 trường gần trăm lớp, với 5.400 học sinh.
Vào năm 1979-1980 hệ trường vỡ lòng được đưa vào cấp I, năm 1984-1985 nhà trẻ lại tách ra khỏi hệ mẫu giáo, và được tiếp tục phát triển. Thời gian này, ngành mẫu giáo các xã Yên Lộc, Kim Lộc, An Lộc, Song Lộc là những điển hình tiên tiến trong tỉnh.
Hiện nay, toàn huyện có 134 nhà trẻ và nhóm trẻ gồm 2.573 cháu, 31 trường 334 lớp mẫu giáo với 9.810 cháu, chất lượng việc nuôi dạy các cháu ở nhà trẻ, mẫu giáo được cải tiến rõ rệt.
Cũng từ buổi đầu, chính quyền cách mạng đã mời các giáo viên cũ dưới thời Pháp – Nhật và nhiều thanh niên, trí thức ra giúp tổ chức và giảng dạy ngành học phổ thông. Trên cơ sở những trường lớp cũ, và ở những nơi có điều kiện, năm 1945-1946 trong huyện đã thành lập được các trường tiểu học liên xã: Ngô Đức Kế (Trảo Nha), Đông Lâm, Nga Khê, Ốc Nhiêu, Bạt Trạc, Dục Vật, Vạn Xuân, Phổ Minh, Thuần Thiện, Phù Ích, Kiến An, Thanh Mỹ. Mỗi trường chỉ mới có vài ba lớp. Số học sinh cả huyện chỉ mới có dưới 1000 em. Một số ít ỏi học sinh đã tốt nghiệp tiểu học trước Cách mạng phải theo học tại các trường trung học Phan Đình Phùng (thị xã Hà Tĩnh), Đậu Quang Lĩnh (Đức Thọ), hoặc trường Vinh.
Năm học 1946-1947, mới có 19 xã thì đến năm học 1952-1953 tất cả 29 xã đều có trường tiểu học riêng, với 7.500 học sinh.
Từ năm học 1947-1948, Can Lộc đã có trường trung học tư thục Đặng Dung với hai lớp đệ nhất và 2 lớp đệ nhị niên, năm học 1948 – 1949 có thêm trường trung học tư thực Lai Thạch, đến năm học 1951-1952 lại có thêm 2 trường mới; Trường trung học quốc lập Can Lộc (từ trường Đặng Dung tách ra) và trường Trung học Thanh Mỹ (Thụ Lộc). Cả 4 trường có 19 lớp 850 học sinh. Cả 2 cấp tiểu học và trung học có gần 200 giáo viên.
Thời gian này có chủ trương cải cách giáo dục thành hệ 9 năm và các môn đều dạy bằng tiếng Việt. Do đó, đến năm học 1952-1953 thì giải tán các trường Tư, sáp nhập lại thành 3 trường phổ thông cấp II (Can Lộc, Lam Kiều, Thanh Mỹ).
Mỗi xã có 1 trường cấp I từ 5-7 lớp, mỗi vùng có 1 trường cấp II. Năm 1964 cả huyện có 32 trường cấp I (ở 32 xã) với 11.370 học sinh; 19 trường cấp II với 4.500 học sinh và có 1 trường cấp III, 500 học sinh. Các cấp học đều có trường tiên tiến: Trường vỡ lòng xã Trường Lộc, trường cấp I xã Đại Lộc, và trường cấp II Lam Kiều.
Trong thời gian 1965-1975, toàn dân phải dốc vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các ngành học, cấp học vẫn không ngừng phát triển. Riêng ngành học phổ thông có 32 trường cấp I với 17.000 học sinh, 25 trường cấp II với gần 10.000 học sinh và 3 trường cấp III với hơn 2.000 học sinh. Mô hình giáo dục ổn định.
Cùng với Nhà nước nhân dân đã đóng góp công, của để xây dựng trường sở và trả lương cho giáo viên. Giáo viên, học sinh đều hưởng ứng phong trào thi đua “Dạy giỏi - học giỏi”. Các trường cấp I Vĩnh Lộc, cấp II Minh Lộc, cấp III Can Lộc là những điển hình tiên tiến trong ngành giáo dục. Năm học 1967-1968 có 58 giáo viên và năm học 1969-1970 có 86 giáo viên giỏi cấp huyện.
Từ 1975 đến 1985, số học sinh toàn huyện tăng lên tới 37.000 em và số giáo viên là 1.479 người. Các xã Hồng Lộc, Vĩnh Lộc, An Lộc, Sơn Lộc, Yên Lộc, Song Lộc, Kim Lộc là các đơn vị giáo dục toàn diện với 3 ngành học đều phát triển cao trong năm học 1984-1985. Bốn xã và 14 đơn vị (gồm 4 trường mẫu giáo, 9 trường trung học cơ sở và Phòng giáo dục huyện) được công nhận đơn vị tiên tiến, và 14 người là giáo viên giỏi cấp tỉnh.
Những năm cuối thập kỷ 90 và thập kỷ 90, sự nghiệp giáo dục Can Lộc tiếp tục có những bước phát trển mới toàn diện, mạnh mẽ hơn theo đà chung của công cuộc đổi mới.
Hiên nay (năm học 1998-1999) ngành học phổ thông 37 trường tiểu học với 29.225 học sinh, 29 trường trung học cơ sở, với 17.350 học sinh, 29 trường trung học cơ sở, với 17.350 học sinh và 5 trường trung học phổ thông với 5.124 học sinh. Trường Trung học phổ thông dân lập cũng đã được thành lập, mở ra một bước phát triển mới.
Số giáo viên giỏi, học sinh tăng rất nhiều. Năm học 1997-1998 có 181 giáo viên giỏi cấp tỉnh và cấp huyện. Trong kỳ thi giáo viên giỏi năm học 1998-1999 cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hoài ở trường tiểu học Bắc Nghèn đạt giải xuất sắc toàn quốc. Cùng thời gian này có 2.881 học sinh giỏi cấp huyện, 150 học sinh giỏi cấp tỉnh và 3 em là học sinh giỏi cấp quốc gia. Tất các xã, thị trấn trong toàn huyện đều được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ, 23 xã được công nhận đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở.
Cùng với các ngành học, trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề đã hoạt động có hiệu quả. Trung tâm giáo dục thường xuyên cũng phát huy khá đầy đủ chức năng bồi dưỡng giáo viên và tạo điều kiện cho việc học tập của nhân dân.
Trong hơn nửa thế kỷ, chính quyền cách mạng và nhân dân Can Lộc đã tạo nên sự nghiệp giáo dục to lớn, vững vàng với đầy đủ các ngành học, cấp học ở địa phương, góp phần to lớn vào công cuộc chiến đấu bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước. Can Lộc còn cống hiến cho văn hóa, khoa học Việt Nam môt đội ngũ trí thức đông đảo gồm khoảng 3000 người tốt nghiệp đại học và 128 người là tiến sĩ, phó tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư, hoạt động trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học trong nước và nước ngoài(1).
Thiên Lộc – Can Lộc xưa nay là đất học hành, cũng là đất của văn chương, trí tuệ, suốt trong 6 thế kỷ đã sinh thành, nuôi dưỡng, cống hiến cho đất nước hàng loạt tác giả văn học, khoa học nhiều người trở thành danh nhân văn hóa.
Nếu không nói đến nhà sử học, nhà văn Sử Hy Nhan (?-1421) ở Ấp Sơn, xã Bình Lãng mà ngày nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh, thì từ đời Hậu Trần, ở thông Tả Hạ, xã Tả Thiên Lộc, xã Tùng Lộc bây giờ, cũng đã có một Đặng Dung (?-1414) nghĩa sĩ – thi sĩ kiệt xuất. Mặc dầu ông chỉ để lại một bài thơ duy nhất, bài Cảm hoài, nhưng lịch sử văn học Việt Nam không bao giờ bỏ qua được. Bài thơ do Lý Quý Đôn (1726-1784) sưu tầm, cháp trong “Toàn Việt thi lục”*, rồi Bùi Huy Bích (1744-1818) lại chép vào Hoàng Việt thi tuyển, nhưng trước đó từng được Lý Tử Tấn (1378-1454) bình luận: “phi hào kiệt chi sĩ, bất năng” (Không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không làm được). Nguyên văn:
Đời Lê, đất Thiên Lộc sản sinh ra không ít nhà thơ, nhà văn, nhưng rất tiếc là tác phẩm của các vị hầu hết bị thất truyền, hoặc chỉ còn lại một ít bài, chưa chắc đã là tiêu biểu…’
Một bài thơ khác, bài “Tự thuật” có người cũng cho là của Nguyễn Văn Giai (?) lại có những câu triết lý hài hước:
Điều kỳ lạ, cũng là điều thú vị khi một vị Tiến sĩ, Tể tướng - Quận công lại có thể giữ được cái chất dân dã của con người xứ Nghệ trong thơ.
Sau Nguyễn Văn Giai, ta còn biết Dương Trí Trạch (1586-1662) là người nhuận sắc một bài văn bia tiến sĩ; Hà Tông Mục là đồng soạn giả bộ Đại Việt sử ký tục biên; Nguyễn Huy Tịu (TK XVII-XVIII) viết các sách Thiên văn bảo kính, Địa lý minh kính (đều mất); và Hoàng Dật (1667-?) là tác giả của bài phú Hoa điểu tranh kỳ, Sơn Cư tự sự (mất).
Trong thế kỷ XVIII, đất Thiên Lộc còn có những tác giả nổi tiếng, cũng là những danh nhân văn hóa, lịch sử: Nguyễn Huy Oánh, Phan Kính, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy Tự.
Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) là nhà trước tác tiêu biểu với một khối lượng tác phẩm to lớn vế văn chương, địa lý, lịch sử (1)… mà ngày nay ta còn biết được: Sơ học chỉ nam, Cổ lễ nhạc chương thi văn tập, Phụng sứ Yên kinh tập, Tiêu tương bát vịnh, Thạc đình di cảo, Phụng sứ Yên kinh tổng ca - có nơi chép Phụng sứ Yên đài tổng ca - (Lục bát - chữ Hán), Huấn nữ tử ca (lục bát, Nôm), Bắc dự tập lãm, (Địa), Hoàng hoa sứ trình đồ (địa, bằng tranh vẽ), Quốc sử toản yếu… (1). Một vị đại khoa mà văn chương (Hán) “Vốn có hơi đài các” (Can Lộc huyện phong thổ ký), “Văn chương chép tắc” (lời Nguyễn Nghiễm, theo gia phả) lại là người viết văn Hán và cả văn Nôm bằng thể lục bát điêu luyện:
Ông còn có bài thơ Nôm: Vịnh chùa Thiên Tượng, không chỉ có những câu tả cảnh đẹp:
Đó là cái chí của ông lúc tuổi đã cao, ngán với thời cuộc lánh đi tìm cái thú riêng (du ngoạn, đọc sách) và tìm việc làm có ích (dạy học, trước tá). Cái ý ấy ông còn nói trong bài thơ khi được về hưu:
“Thơ Phan Kính còn lại không nhiều. Những bài sưu tập được phần lớn lại là những bài viết về mục đích thù tiếp. Một số bài có đề cập đến cuộc đời chinh chiến của ông… ông cũng không dụng ý mô tả cuộc sống hiện thực mà chỉ nhấn sâu hơn về ý chí,về ký tưởng của mình. Một vài lần ông đã tỏ ra một tâm hồn thi sĩ hoặc có một niềm đồng cảm với thiên nhiên bằng những cảm xúc nhân đạo hoặc những cảm giác siêu trần”.
Dưới đây xin giới thiệu bài tứ tuyệt “Dữ đồng khảo Nguyễn Quýnh (Gửi quan đồng khảo Nguyễn Quýnh, tức Tiến sĩ Nguyễn Huy Quýnh, người Trường Lưu):
“Thơ Nguyễn Thiếp có thơ cả cảnh, tả tình, vịnh nhân vật lịch sử, thơ thế sự, thơ đạo lý… Mạch cảm xúc chủ đạo trong thơ Nguyễn Thiếp là tình của nhà thơ với đất nước con người xứ sở Hoan Châu, là tấm lòng ưu ái của nhà thơ trước thế đạo, nhân tâm…”.
Rất tiếc là hầu hết thơ văn khác của Nguyễn Huy Tự đã mất mát. May thay, ta còn biết thêm một bài thơ chữ Hán của ông (một trong 74 bài của bạn bè, con cháu họa lại bài thơ của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh làm lúc 70 tuổi được về hưu).
Suốt thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn, đất Thiên Lộc - Can Lộc vẫn còn nhiều người học hành, đỗ đạt. Cả huện có ngót chục ông Nghè, trên 2 chục ông cử, hàng trăm ông tú, thầy đồ làm thơ, làm văn, viết sách, nhưng hầu hết tác phẩm của họ đều mất mát. Đến nay ta chỉ còn biết được ít đầu sách, bài thơ của mấy tên tuổi quen biết mà thôi.
Ba tác giả nổi lên trong thời gian này là Nguyễn Huy Vinh, Lưu Công Đạo và Nguyễn Huy Hổ.
Nguyễn Huy Vinh (1768-1818) là con thứ hai của Nguyễn Huy Tự. Ông ra ở Chung Sơn (Nam Đàn, Nghệ An) lấy hiệu Chung Sơn cư sĩ, có tập Chung Sơn di thảo và bài Nghệ An phong thổ ký tự. Ông còn là người có công sưu tập các bộ Nguyễn thị gia tàng và Thạch đình di thảo.
Nguyễn Huy Hào, con Nguyễn Huy Oánh tự Bá Hưng là bậc chú, và Nguyễn Huy Hổ, tự Hy Thiệu là em ruột Nguyễn Huy Vinh, nhưng ba người lại là bạn văn chương.Một lần tiễn đưa Huy Hào, Huy Hổ về nam, Huy Vinh có bài thơ Lưu biệt bá Hưng thúc cập Hy Thiệu đệ (Tiễn biệt chú Bá Hưng và em hy Thiệu):
Lưu Công Đạo là nhà địa chí nổi tiếng đồng thời với Bùi Dương Lịch (La Sơn), Lê Văn Diễn (Nghi Xuân).Ông là sooạn giả các bộ sách Thanh Hoa Vĩnh Lộc huyện chí (A 690), Vĩnh Lộc huyện phong thổ chí (A 2537), Thiên Lộc huyện phong thổ chí (có bản chép Thiên Lộc huyện chí) và Lưu giải nguyên gia phả (A 3161). Thiên Lộc huyện phong thổ chí viết khoảng năm Tân Mùi (18110 theo chủ trương và yêu cầu của Hiệp trấn Nghệ An Ngô Nhân Tĩnh (?-1816), một nhà thơ xuất sắc trong “tam gia” đất Gia Định. Sau Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch, Thiên Lộc huyện phong thổ chí là cuốn sách có nhiều tư liệu quý được biên soạn công phu.
Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) là con trai thứ ba của Nguyễn Huy Tự, tác phẩm duy nhất ông để lại là Mai đình mộng ký ghi lại giấc mộng đình Mai nhân chuyến lên thăm ông anh là Huy Vinh ở Chung Sơn, Nam Đàn, năm Kỷ Tỵ (1809). Bài ký gồm 298 câu lục bát được Hoàng Xuân Hãn phiên âm, giới thiệu trên Báo Thanh Nghị năm 1943 và đánh giá là “một áng văn chương tuyệt diệu, không lời nào non, vần nào nép”. Một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng: “Bài ký biểu lộ tư tưởng “hoài lê” nhưng nhiều đoạn văn tả cảnh thì rất đạt”.
Trong phong trào Văn thân cần vương cuối thế kỷ XIX Can Lộc có nhiều nhà yêu nước xuất thân dân dã hoặc khoa cử, trí thức nho học nhưng không có các tác giả văn chương nổi trội, và hiếm có tác phẩm được lưu lại.
Bức thơ là lời thỉnh cầu tha thiết của một phụ nữ gửi một lãnh tụ văn thân xin trả thù cho chồng mình, đã có sức cổ vũ lòng yêu nước chống kẻ thù xâm lược một cách mạnh mẽ, do đó mà các tác phẩm bình dân này đã đi vào lòng người một cách thự nhiên và được lưu truyền đến bây giờ. Trích:
Trong số những người sáng tác văn chương đương thời, đáng chú ý là nhà văn thân Trịnh Quang Thiện (1837-1888), người làng Thanh Lương (nay là xã Thụ Lộc), đỗ cử nhân khoa Kỷ Mão (1879). Sau khi Phan Đình Phùng dấy nghĩa, ông ủng hộ việc cần vương được Phan Phong trào làm quyền tri huyện Can Lộc. Nhưng chưa bao lâu, triều đình nhà Nguyễn cách chức ông và đưa người khác đến thay. Ông về quê dạy học. Theo con cháu ông hiện nay thì ông đã dịch ra văn Nôm cuốn Y học lược biên và bài Lữ hoài ngâm. Ông cũng là tác giả nhiều bài thơ yêu nước, nay chỉ còn lại bài Đi câu sau đây:
Nửa đầu thế kỷ XX là giao thời giữa cựu học và tân học, chữ quốc ngữ lấn át chữ hán, nhưng chữ Hán, chữ Nôm vẫn được dùng khá nhiều trong sáng tác thơ, văn.
Lớp “cựu trào” xuất thân Hán học, đồng thời cũng giỏi quốc ngữ, và có người giỏi cả chữ Pháp, thì tùy từng thời kỳ mà dùng Hán, Nôm hay quốc ngữ để sáng tác, biên soạn.
Ở Can Lộc cũng như ở các địa phương khác, đông đảo các nhà nho ở làng xã, trong đó có các nhà khoa bảng, đều thích làm thơ và để lại khá nhiều tác phẩm tốt, có người có một vài tập thơ, văn, nhưng đến nay hầu như đã bị quên lãng, trừ một số ít được con cháu giữ gìn như gia bảo hoặc được một số người ghi nhớ. Trong các vị, có tù tài Đào Đôn Thạnh ở Hàm Anh (Tân Lộc), đầu huyện Trần Huống từ đầu huyện Sam ở Yên Điềm (Thịnh Lộc), nhà nho Trần Vạn Dị (?-1946) ở Phù Lưu Thượng (Hồng Lộc), phó bảng Nguyễn Xuân Đàm (1888-1955) và nhà nho Trần Công Ngôn (1892-1950) ở Quần Ngọc (Khánh Lộc), nhà nho Trần Hữu Khánh (1889-1950) ở Thuần Thiện (Phúc Lộc), tù tài Võ Quốc Vọng (1898-1929) và nhiều người khác. Các nhà nho Võ Tĩnh (ở Song Lộc sau ở Vinh Lộc), Nguyễn Hàng Chi 91886-1908), Võ Ngọc Liễn (1881-1938) ở Thịnh Lộc v.v.. là những nhà nho yêu nước, cách tân, đều tham gia phong trào Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo. Võ Tĩnh còn để lại bài thơ (Hán) Tự vịnh làm lúc ông bị tù ở Côn Đảo và Văn tế Liệt sĩ Lê Trà (Nôm – 1937).
Nguyễn Hàng Chi là tác giả nhiều bài thơ, câu đối, bài ca, bài vè vè thư, lời kêu gọi… (chữ Hán, chữ Nôm) trong đó cóbaif thơ Tuyệt mệnh dưới đây:
Một số cán bộ cách mạng lớp nối tiếp các nhà yêu nước trên, sáng tác không nhằm mục đích làm văn chương, mà chủ yếu để tuyên truyền, cổ động quần chúng, hoặc ghi lại một tâm trạng, một cảnh ngộ, một sự việc đã trải qua trong khi hoạt động hay trong lúc ở tù.
Đó là Trần Hiếu Liêm, Đặng Văn Giáp, Hoàn Lạc, Trần Hoàn Nhân, Ngô Đức Đệ, Lê Viết Lượng, Ngô Đức Mậu, Lê Bá Tuân, Võ Thị Ngọ v.v…
Trần Hiếu Liêm (1892? - 1955) thường gọi là Chắt Thoan, ở Phúc Xá, Kim Lộc là một nhà nho và là một tác giả có nhiều thơ ca, vè truyền rộng rãi ở Can Lộc (xem bài vè Tiễn bạn ra tù ở phụ lục chương Văn hóa dân gian).
Đặng Văn Cáp (1894-1984) ở Sơn Định –Thượng Lộc, là nhà nho, nhà Đông y, cũng có nhiều thơ, câu đối chữ Hán và quốc âm. Ồng còn có hai thiên hồi ký kể chuyện hoạt động cách mạng ở Thái Lan và gặp Bác Hồ (in trên tạp chí Tác phẩm mới) và kể chuyện hoạt động ở Truung Quốc và thời kỳ mới về nước làm việc bên cạnh Bác Hồ (in trong sách Đầu nguồn).
Hoàng Lạc (1896-1934) ở Định Lự (Tân Lộc) là tác giả của nhiều thơ ca tuyên truyền cách mạng như: Ru con, Khuyên con, Con vạc mồi, Gửi cố hương v.v… và bài hát giặm Em khuyên chị (Tiếng dân số 205, 28-81928).
Trần Hoàn Nhân ở Tiền Lối (Quang Lộc) cũng là nhà nho, làm nhiều thơ nhưng chỉ ghi lại được 30 bài trong tập hồi ký Đời tôi, trong đó có bài Ăn tết ở Lao Thừa Thiên năm 1944 dưới đây:
Ngô Đức Đệ (sinh năm 1905) ở Trảo Nha, (nay nghỉ hưu ở Hà Nội) có tập hồi ký 160 trang Từ Hà Tĩnh đến nhà đày Kon Tum (xuất bản tại Kon Tum năm 1995).